Tuesday, November 12, 2013

Làm sao chống ngoại xâm?

Nhìn lại dòng lịch sử Dân Tộc trên bốn ngàn năm, nưóc Việt Nam luôn luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm, nhất là giặc phương Bắc. Dù là triều đại nào: Hán, Tống, Minh, Nguyên, Thanh, tham vọng cố hữu của Tầu là xâm chiếm và đồng hóa nước ta. Việt Nam đã bao nhiêu lần bị Tàu đưa quân sang chiếm, rồi nhờ tinh thần bất khuất mà Tổ Tiên ta đã chiến đấu giành lại Độc Lập cho nước nhà. Giai đoạn bị đô hộ lâu dài nhất hơn một ngàn năm từ 111 trước Tây Lịch đến 939 sau Thiên Chúa Giáng Sinh, tưởng chừng như Việt Nam đã bị xóa bỏ hoàn toàn khỏi bản đồ thế giới. Vậy mà thời cơ đến, anh hùng Ngô Quyền đã đánh đuổi quân Nam Hán giành lại độc lập cho Dân Tộc. Phải nói đó là một phép lạ, một đại kỳ công, nhờ vào dũng khí của Tiền nhân, cũng như tinh thần bất khuất của Dân Tộc Việt Nam.

Trên thế giới này, có lẽ chỉ có hai Dân tộc bị giặc ngoại xâm đô hộ lâu dài nhất là dân tộc Do Thái và dân tộc Việt Nam, vậy mà cả hai đã vùng lên giành lại được nền Độc Lập và Tự Chủ.

Việt Nam bị đô hộ hơn một ngàn năm như đã nói trên. Còn Do Thái bị phân tán rải rác khắp hoàn cầu ròng rã gần 20 thế kỷ (70 năm trước Tây Lịch đến 1948 sau Thiên Chúa Giáng Sinh). Vậy mà nhờ nỗ lực của nòi giống, họ đã biết duy trì bản sắc Văn hóa cá biệt, nên gặp kỳ Đại Chiến thứ 2, khi Đức Quốc Xã thi hành chính sách tiêu diệt Do Thái thì nhờ các nước Đồng Minh đã đưa dân Do Thái trờ về vùng Palestine và từ đó có cơ hội thành lập nhà nước Israel. Nói như thế có nghĩa là “Tinh thần Dân Tộc” là yếu tố quyết định cho sự thành hay bại, tồn tại hay bị diệt vong. Cho nên, mất đất, bị chiếm làm nô lệ chưa hẳn đã tiêu diệt được Dân tộc một khi Dân tộc còn giữ được bản sắc, còn duy trì được tinh thần bất khuất, còn biết rèn luyện lãnh đạo, còn biết nuôi chí phục thù thì việc phục quốc vẫn còn cơ may. Nhìn lại dòng Lịch sử Dân Tộc nhất là bao phen bị Tầu đô hộ mà Tổ Tiên ta vẫn anh dũng vùng lên đánh đuổi quân xám lược phương Bắc giành lại Độc Lập Tự Chủ cho Đất Nước chứng tỏ rằng dòng máu anh hùng bất khuất của Tiền Nhân vẫn còn luân lưu trong huyết quản mỗi người Việt Nam chúng ta dù ở phương trời nào, thời gian nào. Thật không phải vì chủ quan mà dựa vào chứng liệu Lịch Sử Dân Tộc, nên Cụ Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô Đại Cáo: “Tuy cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt thời nào cũng có.”

Việt Nam là một nước nhỏ lại ở sát cạnh một anh khổng lổ, đất rộng dân đông là Trung Hoa đầy tham vọng. Về địa lý, Việt Nam lại là bao lơn trông ra Thái Bình Dương, cho nên luôn luôn là đối tượng mà giặc ngoại xâm dù là phương Bắc hay phương Tây nhòm ngó. Bởi đó, công việc chống ngoại xâm là mối lo hàng đầu và triền miên của Dân Tộc. Hiện nay, Trung Cộng đã trở thành một cường quốc hùng mạnh trên thế giới với sự gia tăng dân số khủng khiếp nên mộng bành trướng lãnh thổ lại càng gia tăng, không phải chỉ nhắm xuống vùng Đông Nam Á mà còn muốn nhòm ngó sang tận cả Phi Châu và Nam Mỹ. Những hành động bành trướng của Trung Cộng hiện nay đã là mối đe dọa cho thế giới, như ông Ngô Đình Nhu đã viết: 

“Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ Tướng Khrushhev. “ Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”. 

Thật ra thì Trung Hoa cũng có nhiều phen yếu đuối, bị Nhật Bản và Tây phương lấn áp, đè bẹp. Nay dù có hùng mạnh, nhưng dân số quá đông, đất đai hạn hẹp, lại duy trì chế độ độc tài độc đảng, nội bộ cũng có những bất đồng xáo trộn. Mỗi lần thay đổi lãnh đạo là một lần đổ máu công khai hay âm thầm, nên đó cũng là nhược điểm. Vả lại thời đại thông tin điện tử hôm nay, thời đại được mệnh danh là Toàn Cầu Hóa, nên chưa chắc gì Trung Hoa có thể lấn áp thế giới, muốn làm gì thì làm. Tuy là tiến bộ hơn 50 năm trước nhưng về khoa học, kỹ thuật, Trung Cộng vẫn còn thua Tây phương, nhất là Hoa Kỳ hàng vài chục năm. Ngay Trung Hoa Quốc Gia tức Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Hoa, vậy mà trên 60 năm nay (1949-2013), Trung Cộng đâu dám dùng võ lực để thống nhất. Thực tế, Hoa Kỳ bắt buộc phải bảo vệ Đài Loan, nếu không Trung Cộng sẽ làm mưa làm gió ở Biển Đông và Đông Á, Nhưng chính Đài Loan và Nhật Bản cũng lại là mối đe dọa cho Trung Cộng.

Trở lại công cuộc chống ngoại xâm của Dân Tộc... 

Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương? 

Trước hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam, và như thế, đương đầu phải là mục đích đương nhiên, thì chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta. 

Lý do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn. 

Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta. 

Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. 

Nếu ý thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc. 

Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng. 

Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng. 

Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên. 

Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. 

Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ. 

Bản chất của môt chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền. 

Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người, thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm. 

Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân. 

Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân. 

Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam. Vì những lý do trình bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc. 

Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt.

No comments:

Post a Comment