Thursday, October 3, 2013

Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và ông hồ chí minh (bài 1)

Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh (bài 1)


Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Đất nước Việt Nam đang trượt dốc đến suy tàn, đang từng bước rơi vào tay cộng sản Trung Quốc, mỗi người Việt Nam cần hành động cứu nước. Song song với việc thúc đẩy tranh đấu trong nước, chúng ta phải mạnh mẽ tố cáo trước thế giới tội ác của cộng sản Việt Nam. Việc đưa nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ra tòa hình sự quốc tế và Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hợp Quốc là cần thiết. Tuy nhiên cần nhiều chứng cứ cụ thể hơn nữa để có tiếng nói có giá trị hơn nữa. Kính đề nghị quý bạn đọc cung cấp thêm chứng cứ về tội ác của cộng sản đối với bản thân và gia đình mình, tội ác của CS tại quê hương mình để giúp tôi đúc kết  một bộ hồ sơ hoàn chỉnh hơn nữa sau khi bản cáo trạng này được đăng tải. Tôi kêu gọi các nạn nhân của chiến dịch tàn sát của đảng cộng sản Việt Nam năm 1968 hãy cùng tôi trả lại sự thật cho những cái chết oan khiên...

*

Kính thưa bạn đọc!

Trong quá trình tìm hiểu và nhận thức của mình tôi đã sưu tầm được rất nhiều tài liệu, nhân chứng liên quan đến tội ác của đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ Chí Minh.
Những bài viết “Những sự thật không thể chối bỏ” của tôi đã được ban biên tập Dân Làm Báo (danlambaovn.blogspot.com) đăng tải tố cáo tội ác của chế độ độc tài cộng sản Việt Nam và cá nhân lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh đối với nhân dân Việt Nam.

Như chúng ta đã biết đảng cộng sản Việt Nam với chính sách sắt máu đã đàn áp các đảng phái đối lập, tôn giáo, những nhà bất đồng chính kiến, những người tranh đấu cho sự tiến bộ xã hội là truyền thống, là việc làm thường xuyên từ khi đảng cộng sản cướp được chính quyền từ năm 1945 đến nay.

Cuộc đấu tố “Cải cách ruộng đất” theo chỉ thị của Stalin và Mao Trạch Đông từ năm 1953 đến 1957 đã cướp đi sinh mạng gần 200 ngàn người Việt và hậu quả của nó không những về người mà còn làm băng hoại đạo đức và văn hóa dân tộc.

Cuộc Cách mạng văn hóa chống Nhân Văn Giai Phẩm 1957-1960: Hàng ngàn Trí thức, Nhà Văn, Nhà báo có tư tưởng dân chủ bị vào tù, nhiều người bị chết trong ngục tối.

Chiến dịch “chống xét lại” từ năm 1963 tiếp tục bức hại hàng chục ngàn người trong có có cả những đảng viên, đồng chí của đảng.

Dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh lúc đó đang là người đứng đầu đảng và nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1958 đã chỉ đạo ông Phạm Văn Đồng lúc đó là thủ tướng chính phủ ký công hàm công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là của Trung Quốc. Ở đây ông Hồ Chí Minh và ông Phạm Văn Đồng mắc tội vi hiến, độc tài không thông qua quốc hội cũng như dân ý mà tự quyền đem đất đai tổ quốc cho nước khác.

Đảng cộng sản dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh còn vi phạm thỏa thuận ngưng bắn trong dịp tết Mậu Thân năm 1968 với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, và đã tàn sát 6000 dân thường tại thành phố Huế.

Từ năm 1975, sau khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa nhằm “Thống nhất đất nước” thay vì dùng chính sách “Hòa giải và hòa hợp dân tộc”, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại dùng chính sách trả thù khốc liệt: đánh tư sản Miền Nam, cướp tài sản của mọi tầng lớp nhân dân, đẩy hàng triệu người lên vùng kinh tế mới thực chất là các trại lao động cưỡng bức tại những vùng rừng núi hẻo lánh; đưa hàng trăm ngàn sĩ quan binh lính của Việt Nam Cộng Hòa vào các nhà tù không thời hạn, trải dài khắp đất nước Việt Nam.

Sự trả thù khốc liệt đã khiến hàng triệu người phải tìm đường trốn chạy khỏi đất nước bằng đường biển tạo nên hiện tượng “thuyền nhân / boat people” của thế kỷ 20, khiến hàng vạn người bị chết trên biển.

Từ năm 1990, sau khi khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nhằm cứu nguy chế độ, nhà cầm quyền Cộng sản buộc phải cải cách kinh tế theo phương thức “kinh tế thị trường”, nhưng lại liên kết với đảng cộng sản Trung quốc tại “Hội nghị Thành Đô” (Trung Quốc) để duy trì chế độ độc tài cộng sản.

Hàng ngàn người yêu nước tiếp tục bị bức hại, bị vào tù. Đảng cộng sản dùng chính sách “cộng sản hóa” các tôn giáo và các tổ chức xã hội: các sỹ quan an ninh đội lốt thầy tu, nhà sư xâm nhập hầu hết các nhà chùa Phật giáo và nhà thờ Thiên Chúa giáo.

Những cơ sở tôn giáo nào chống lại chính sách này đều bị đàn áp khốc liệt. Những cái tên Thái Hà, Đồng Chiêm, Cồn Dầu, Tam Tòa, Con Cuông, Bát Nhã... trở thành những biểu hiện hãi hùng đối với người dân Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị đàn áp và phong tỏa triệt để. Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ (người được đề cử giải Nobel nhiều lần) bị tù và bị quản thúc đến nay vẫn chưa được tự do. Các cơ sở và thánh đường Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài bị tàn phá, các phật tử thường xuyên bị truy bức, đánh đập thậm chí bị thủ tiêu. Chỉ những cơ sở tôn giáo nào chấp nhận đường lối cộng sản, chấp nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản thì mới được hành đạo. Nhà cầm quyền cộng sản thường dùng những cơ sở này để quảng cáo trước thế giới cho chính sách tôn giáo của họ.

Các tổ chức xã hội: Nghiệp đoàn, Phụ nữ, Thanh Niên, Nông dân... cũng bị tập trung trong một tổ chức “Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam” do một Ủy Viên Trung ương đảng cộng sản cầm đầu, thực chất đây là các cơ sở ngoại vi của đảng cộng sản, thực hiện chỉ thị của đảng cộng sản, kiềm tỏa mọi hành động và tư tưởng của người dân.

Hiện nay tại Việt Nam hàng ngàn người Việt đang bị tù đày trong các nhà tù khắc nghiệt chỉ vì bày tỏ lòng yêu nước, bày tỏ chính kiến khác với đảng cộng sản, viết blog để bày tỏ quan điểm, không chấp nhận quan điểm tôn giáo do đảng cộng sản áp đặt.

Tự do báo chí cũng không được tôn trọng. Dù hiến pháp của Việt Nam năm 1946 đã quy định quyền tự do ngôn luận và báo chí nhưng đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục vi phạm bằng việc cấm khiếu kiện tập thể, cấm tập trung và lập đoàn lập hội, cấm bày tỏ bất đồng chính kiến và cấm triệt để báo chí tư nhân.

Đất nước Việt Nam đang trượt dốc đến suy tàn, đang từng bước rơi vào tay cộng sản Trung Quốc, mỗi người Việt Nam cần hành động cứu nước. Song song với việc thúc đẩy tranh đấu trong nước, chúng ta phải mạnh mẽ tố cáo trước thế giới tội ác của cộng sản Việt Nam. Việc đưa nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ra tòa hình sự quốc tế và Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hợp Quốc là cần thiết. Tuy nhiên cần nhiều chứng cứ cụ thể hơn nữa để có tiếng nói có giá trị hơn nữa.

Kính đề nghị quý bạn đọc cung cấp thêm chứng cứ về tội ác của cộng sản đối với bản thân và gia đình mình, tội ác của CS tại quê hương mình để giúp tôi đúc kết  một bộ hồ sơ hoàn chỉnh hơn nữa sau khi bản cáo trạng này được đăng tải. Tôi kêu gọi các nạn nhân của chiến dịch tàn sát của đảng cộng sản Việt Nam năm 1968 hãy cùng tôi trả lại sự thật cho những cái chết oan khiên vì trong lần tố cáo này có 2 nhân chứng đã từng là cán bộ cao cấp và trực tiếp thi hành mệnh lệnh giết hại dân lành ra làm chứng. Tôi đã động viên họ và họ sẵn sàng chuộc lại sai lầm của mình bằng việc ra làm chứng và cung cấp tài liệu. Vì lý do an ninh nên tạm thời tôi chưa nêu tên thật của họ. Khi ra đối chất họ sẽ có đủ bằng chứng.

Đây không phải là sự trả thù mà là việc làm cần thiết, phải trả lại sự thật cho lịch sử đồng thời là một bài học cảnh báo cho các chế độ cầm quyền tiếp theo. Mong bạn đọc góp ý chân tình và thẳng thắn, đóng góp, giúp đỡ để bản cáo trạng của chúng ta có chất lượng nhất và đến tay các tổ chức quốc tế.

Kính mong được sự tiếp tay, hưởng ứng của quý độc giả.

* Lưu ý: Bạn đọc thân mến!

Vì đây là bản cáo trạng chi tiết gửi bạn đọc xem xét và góp ý rồi sau đó ký tên ủng hộ phong trào Toàn dân tố cáo của chúng ta dựa trên 2 loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ” và “Những sự thật cần phải biết”, đã, đang và sẽ đăng tải trên Danlambao. Sau đó tôi xin được phép dựa trên bản cáo trạng này và những đóng góp ý kiến của bạn đọc được rút gọn lại một lần nữa đăng trên DLB. Lý do là cần có thêm những ý kiến đóng góp của bạn đọc thật bổ ích và LHQ cũng như các cơ quan công luận Quốc tế không thể đọc hết những gì dài dòng, quá chi tiết. Nên chú trọng vào những hậu quả của đảng cộng sản và ông HCM gây ra cho dân tộc Việt Nam. 
______________________________

BẢN CÁO TRẠNG VỀ TỘI ÁC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ ÔNG HỒ CHÍ MINH

Kính gửi:

- Đại hội đồng LHQ (UN General Assembly).
- Ông Tổng thư ký UN General Assembly (the eighth and current Secretary-General of the United Nations-UN) Ban Ki Moon.
- Toàn thể các vị lãnh đạo của tất cả các quốc gia trong LHQ.
- Ông Chủ tịch Tòa án Công lý quốc tế (International Court of Justice- ICJ) Peter Tomka.
- Ông Chủ tịch Tòa án Hình sự quốc tế (President of the International Criminal Court- ICC) Song Sang-Huyn.
- Bà ủy viên công tố Tòa án Hình sự quốc tế (Prosecutor of the International Criminal Court- ICC) Fatou Bensouda.
- Bà Cao ủy Hội đồng Nhân quyền LHQ (the United Nations High Commissioner for Human Rights- OHCHR) Navanethem Pillay.
- Ông Tổng thống Hoa Kỳ (President of USA) Barak Obama.
- Ông Chủ tịch Hội đồng châu Âu (President of the European Council) Herman Achille Van Rompuy.
- Ông Chủ tịch Quốc hội EU (President of the European Parliament) Martin Schulz.
- Ông Chủ tịch Ủy ban Liên minh châu Âu (President of the European Commission) Manuel Durão Barroso.
- Bà Đại diện cao cấp của Liên minh châu Âu (EU) về đối ngoại và chính sách an ninh (High Representative of the Union for Foreign Affairs and Security Policy) Catherine Margaret Ashton.
- Ông Chủ tịch Tòa án Công lý của Liên minh châu Âu (President of the European Court of Justice- ECJ) Vassilios Skouris.
- Ông Giám đốc điều hành hiện tại của Human Rights Watch (The current executive director of Human Rights Watch-HRW) Kenneth Roth.
- Ông Phó Giám đốc Ban Á Châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (The Deputy Asia director of Human Rights Watch-HRW) Phil Robertson.
- Ông đồng chủ tịch Hội Luật sư Quốc tế (Co-Chair International BAR Association-IBA) Stephen Denyer và ông Đồng Chủ tịch Hội Luật sư Quốc tế (Co-Chair International BAR Association-IBA) Ronaldo Camargo Veirano.
- Ông chủ tịch hội Freedom House William H. Taft IV.
- Ông chủ tịch Hội đồng châu Âu (President of The Parliamentary Assembly of the Council of Europe PACE) Jean-Claude Mignon.
- Ông Tổng thư ký Tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International-AI) Salil Shetty. 
- Ông chủ tịch Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền (International Federation for Human Rights - FIDH) Souhayr Belhassen.
- Ông chủ tịch Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) M. P. de Brichambaut và ông tổng thư ký Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) Kanat Saudabayev.
- Ông đại diện đặc biệt Liên minh châu Âu về Nhân quyền (EU Special Representative for Human Rights-EUSR) Stavros Lambrinidis.
Kính thưa quí vị, 

Chúng tôi những người đồng ký tên dưới đây cùng tố cáo tội ác của Hồ Chí Minh, của đảng cộng sản Việt nam và của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - giai đoạn 1945-1969 và tội ác của đảng cộng sản Việt Nam và của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam - giai đoạn 1969-2012 về 2 tội ác theo Hiến chương LHQ và theo Qui chế Rome 17th day of Juli 1998:

a. Tội ác diệt chủng (The crime of genocide) 
b. Tội ác chống loài người (The crimes against humanity)

Kính thưa quý vị, 

Trước khi đi vào nội dung bản cáo trạng thì tôi xin nói qua về bản thân tôi và công việc tôi đang theo đuổi.

Tôi vốn sinh ra sau năm 1975 có nghĩa là sinh sau cuộc chiến tranh giữa VNDCCH và VNCH. Tôi cũng được sinh ra trên đất Bắc Việt Nam ngay tại cái nôi của chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản Việt Nam. Bản thân gia đình tôi có cha là bộ đội tham gia quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn mẹ tôi là viên chức - đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Xung quanh họ hàng tôi có bác (bên cha tôi) và cậu (em ruột mẹ tôi) là liệt sỹ khi chiến đấu trong hàng ngũ quân đội VNDCCH. Ngoài ra hiện nay gia đình tôi có nhiều người thân công tác trong đội ngũ chính quyền nước CHXHCNVN. Họ phần lớn là đảng viên và tham gia đủ các lĩnh vực trong đó có cả An ninh, cảnh sát và quân đội... Tôi cũng đã được học tập dưới mái trường của CNXH, đã từng là một cán bộ đoàn của đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (tổ chức ban đầu của đảng cộng sản Việt Nam) và hiện nay đang là công dân nước CHXHCN Việt Nam.

Nói như vậy để các quý vị hiểu rõ động cơ của tôi khi tiến hành công việc này không phải với mục đích “trả thù” hay “thù hận” gì đối với đảng cộng sản, ông Hồ Chí Minh và nhà nước CHXHCN Việt Nam. Động cơ chính của tôi đó là đem lại sự thật, sự công bằng cho những nạn nhân dưới ách thống trị của đảng cộng sản Việt Nam. Và trên hết tôi muốn công lý và sự thật phải được thực thi nhằm vạch trần bộ mặt thật của chế độ cộng sản Việt Nam.

Tuy nhiên bản cáo trạng gửi tới quý vị ngày hôm nay không phải của riêng cá nhân tôi mà là nguyện vọng của rất nhiều đồng bào của tôi đang sống tại Việt Nam cũng như đồng bào của tôi đang sinh sống trên khắp thế giới. Tất cả chúng tôi cùng chung sức và chung ý tưởng để xây dựng nên bản cáo trạng này. Điều đó được thể hiện ở số chữ ký của chúng tôi gửi tới quý vị. Đó là nguyện vọng không chỉ cá nhân tôi mà là của cả dân tộc tôi. Tôi phải dùng từ dân tộc vì nhân dân Việt Nam chúng tôi dù đi đâu, làm gì và có trở thành công dân nước khác vẫn luôn tự hào có cội nguồn dân tộc Việt Nam. Chúng tôi có sức mạnh đoàn kết và bằng chứng sự thật. Chúng tôi cần các quý vị bằng ánh sáng công lý và trung thực, giúp đỡ chúng tôi trong việc phân minh bản cáo trạng này. Chúng tôi tin rằng bằng lương tâm và trách nhiệm của mình đối với loài người nói chung và đối với dân tộc Việt Nam chúng tôi nói riêng, quý vị sẽ có những hành động thiết thực lên án tội ác của đảng cộng sản Việt Nam, tội ác của ông Hồ chí Minh và tội ác của nhà nước CHXHCN Việt Nam để đem lại công lý cho những người đã mất, cho những người còn sống đang ngày đêm chịu oan khuất dưới ách độc tài của đảng cộng sản VN.

Bằng tất cả trái tim và nhiệt huyết của mình giành cho đất nước tôi và dân tộc tôi, tôi cùng đồng bào Việt Nam trên khắp thế giới chỉ muốn đem lại sự công bằng, công lý cho nhân dân chúng tôi bị đảng cộng sản tước bỏ gần 80 năm qua. Tôi không hề có bất cứ động cơ cá nhân hay chính trị cho đảng phái nào. Với tất cả danh dự và trách nhiệm của một người con Việt Nam, tôi xin cam đoan những gì gửi tới quý vị là trung thực và thẳng thắn. 

Kính thưa quý vị! 

Nhân dân Việt Nam chúng tôi đã từng sống trong một trại tù khổng lồ không hơn không kém từ trước năm 1975 (phần miền Bắc) và cả nước Việt Nam từ sau năm 1975 cho đến nay. Chính vì vậy chúng tôi không thể ngồi yên khi công lý và nhân quyền tiếp tục bị đảng cộng sản Việt Nam chà đạp một cách thô bạo. 

Thay cho lời giải thích vì sao chúng tôi làm bản cáo trạng này tới quý vị, chúng tôi xin mượn câu nói của nhạc sỹ Việt Khang đang bị giam cầm trong ngục tù cộng sản chỉ vì viết bài hát kêu gọi lòng yêu nước, chống ngoại xâm Trung Quốc: “BỞI VÌ CHÚNG TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT NAM”!

Kính thưa quý vị!

Khi nói đến việc bảo vệ quyền con người, dù dưới góc độ nào, có nghĩa cũng đề cập đến việc bảo vệ nhân thân, các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Tại Lời nói đầu Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (được Đại Hội đồng Liên Hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948) đã khẳng định: “Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới... Điều cốt yếu là quyền con người cần phải được pháp luật bảo vệ để con người không buộc phải nổi dậy như là một biện pháp cuối cùng nhằm chống lại sự độc tài và áp bức... Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên Hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người”. Như vậy, việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ chung của tất cả các quốc gia và mọi dân tộc trên thế giới, trước hết là trên phương diện chính trị - pháp lý, sau là thực tiễn xã hội.

Luật hình sự quốc tế là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế ghi nhận những hành vi đặc biệt nguy hiểm cho các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế là các tội phạm quốc tế (và tội phạm có tính chất quốc tế - tội phạm xuyên quốc gia), đồng thời quy định hệ thống hình phạt và các chế định pháp lý có thể được áp dụng đối với những chủ thể vi phạm, cũng như tổng hợp những nguyên tắc xác định quyền và nghĩa vụ của các thành viên cộng đồng quốc tế, nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia trong việc xử lý và phòng, chống các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong đó có tội ác diệt chủng và chống lại loài người.

Kể từ khi Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội phạm diệt chủng (Convention on the Prevention and Punishment of the Crime of Genocide - CPPCG) có hiệu lực vào tháng 1 năm 1951 khoảng 80 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc đã thông qua luật kết hợp các quy định của các CPPCG vào pháp luật quốc gia của họ, và một số thủ phạm diệt chủng đã được tìm thấy có tội, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của pháp luật như vậy, chẳng hạn như Nikola Jorgic, người bị kết tội diệt chủng ở Bosnia vào một tòa án Đức.

Sau khi tối thiểu 20 quốc gia đã trở thành các bên tham gia Công ước, nó đến như luật pháp quốc tế có hiệu lực vào ngày 12 tháng một năm 1951. Tuy nhiên tại thời điểm đó, chỉ có hai trong năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc (HĐBA) là các bên tham gia hiệp ước: Pháp và Trung Quốc. Cuối cùng Liên Xô phê chuẩn vào năm 1954, Vương quốc Anh vào năm 1970, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1983 (đã thay thế nước Cộng hòa Đài Loan dựa trên của Trung Quốc vào Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc trong năm 1971), và Hoa Kỳ vào năm 1988 và cho đến những năm 1990 của pháp luật quốc tế về tội ác diệt chủng đã bắt đầu được thực thi.

Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc số 1674, được thông qua bởi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngày 28 tháng tư 2006: “Tái khẳng định quy định của điều 138 và 139 của Văn kiện thế giới năm 2005 Kết quả Hội nghị thượng đỉnh về trách nhiệm bảo vệ các quần thể từ tội diệt chủng, tội ác chiến tranh, thanh trừng sắc tộc và tội ác chống lại nhân loại.” 
Có thể xem thêm ở địa chỉ: http://www.un.org/News/Press/docs/2006/sc8710.doc.htm

Kể từ khi CPPCG có hiệu lực vào tháng 1 năm 1951 khoảng 80 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc đã thông qua luật kết hợp các quy định của CPPCG các thành luật, thành phố trực thuộc Trung ương của họ.

Đồng thời LHQ cũng thông qua yêu cầu tất cả các bên có liên quan thực hiện đúng các nghĩa vụ đối với họ theo quy định của pháp luật quốc tế, đặc biệt là những người nằm trong các Công ước Hague 1899 và 1907 và các Công ước Geneva năm 1949 và Nghị định thư bổ sung của họ năm 1977, cũng như với các quyết định của Hội đồng Bảo an.

Cụ thể tại Việt Nam: 

Kính thưa quý vị!

Dựa trên các điều luật của LHQ đã thông qua và ban bố: 

a. Căn cứ điều 2 khoản 1 Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948 của HĐBA LHQ; 

b. Căn cứ điều 6 khoản 1,2,3 và 4 của công ước ICC năm 2007;

c. Căn cứ điều 4 Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc số 1674, được thông qua bởi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngày 28 tháng tư 2006;

d. Quy chế Rome 17/07/1998 (http://untreaty.un.org/cod/icc/index.html);

e. Căn cứ vào Bộ luật nhân quyền năm 1976 của LHQ;

f. Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, ban hành năm 1948;

g. Công Ước Quốc Tế về những quyền Dân Sự và Chính Trị, năm 1966;

h. Công Ước Quốc Tế về những quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa, năm 1966;

i. Công ước quốc tế về bảo vệ nạn nhân chiến tranh được ký kết 12.8.1949 tại Geneve;

k. Công ước về trẻ em năm 1989 (thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 44-25 ngày 20/11/1989 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.). Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, trong Nghị quyết số 50/155 ngày 21 tháng 12 năm 1995, thông qua việc sửa đổi khoản 2, điều 43 của Công ước Quyền trẻ em, bằng cách thay từ “mười” bằng từ “mười tám”. Việc sửa đổi này có hiệu lực vào ngày 18 tháng 11 năm 2002 khi được chấp nhận bởi đa số 2/3 của các quốc gia thành viên.

l. Công ước Quốc tế về Bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di trú và các thành viên gia đình họ, 1990 (được thông qua theo Nghị quyết A/RES/45/158 ngày 18/12/1990 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc)

Chúng tôi, toàn thể 90 triệu người dân đang sinh sống tại Việt Nam và hàng triệu người dân đang sống trên khắp thế giới cùng ký tên gửi tới quý vị bản cáo trạng với những nội dung như sau: 

1) Tội Ác Xâm Lược (The crime of Aggression); 
2) Tội Ác Chiến Tranh (War Crimes); 
3) Tội Ác Diệt Chủng (The crime of Genocide); 
4) Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity);
5) Vi phạm Bộ luật Nhân Quyền quốc tế (International Bill of Human Rights) 

Chúng tôi xin chia ra các giai đoạn thời gian cụ thể: 

A. Giai đoạn 02/09/1945 - 02/09/1969

Đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh đã vi phạm nhân quyền, diệt chủng, vi hiến và chống lại dân tộc, chống lại loài người, gây chiến xâm lăng cụ thể là các sự kiện nổi bật sau: 

- Tiến hành chính sách cải cách ruộng đất man rợ tại VNDCCH. 

- Đàn áp nhân dân, trí thức về kinh tế, tư tưởng (điển hình là vụ án Nhân văn Giai phẩm hay các trường hợp của luật sư Nguyễn Mạnh Tường...) 

- Gây chiến tranh xâm lăng một nước có chủ quyền được LHQ công nhận (VNCH). 

- Tàn sát nhân dân vô tội qua vụ thảm sát Mậu thân 1968 tại Huế. 

- Công nhận chủ quyền Việt Nam cho nước khác khi không qua quốc hội (Công hàm 1958 công nhận HS-TS là của Trung Quốc).

- Tiêu diệt những người yêu nước nhưng không cộng sản: Điển hình là vụ án của cụ Phan Bội Châu. 

B. Giai đoạn 1969 đến 1975: 

- Tiếp tục gây chiến tranh phi nghĩa với VNCH gây đau thương cho dân tộc trong đó có những thảm họa kinh hoàng như “Đại lộ kinh hoàng” 1972 tại Quảng Trị. 

- Vi phạm hiệp ước Paris 1973.

- Sử dụng trẻ em trong chiến tranh - vi phạm luật về chiến tranh và sử dụng trẻ em.

- Đày đọa các tù bình trong chiến tranh. 

C. Giai đoạn 1975 đến nay: 

- Trả thù man rợ quân dân, cán chính một nước (VNCH) sau khi cưỡng chiếm nước này.

- Cướp tài sản của nhân dân Miền Nam thông qua chính sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản.
- Đẩy hàng trăm ngàn người phải ra biển gây nên nạn thuyền nhân nổi tiếng và đau thương cho dân tộc Việt Nam. 

- Vi phạm luật nhân quyền và chống loài người: bắt bớ nhưng người phản đối và bất đồng chính kiến yêu nước như bắt giam T.S Cù Huy Hà Vũ, L.S Lê Công Định, Doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Nhà giáo Đinh Đăng Định, Nguyễn Xuân Nghĩa, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Nhạc sỹ Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Sinh viên Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha...

Chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung cáo trạng cụ thể sau đây.

Giai đoạn 02/09/1945-02/09/1969: 

Phần 1: Sự kiện Cải cách ruộng đất tại VNDCCH: 

Cách đây gần 60 năm, một biến cố lớn lao đã xảy ra ở Bắc Việt. Người Cộng sản gọi đó là “cuộc cách mạng long trời lở đất” còn lịch sử ghi nhận nó như “cuộc Cải cách Ruộng đất kinh thiên động địa” đầy máu và nước mắt vì đã gây ra cái chết cho khoảng nửa triệu đồng bào.

Những kẻ tạo nên biến cố đau thương này chính là Hồ Chí Minh và đảng Lao động VN (một biến tướng của đảng cộng sản Việt Nam). Do mù quáng thấm nhiễm một học thuyết chủ trương quốc hữu hóa mọi phương tiện sản xuất để dễ dàng khống chế toàn xã hội, do nô lệ tuân hành sự chỉ đạo của các lãnh tụ Trung Cộng và Liên Xô, do ý đồ khuất phục nhân dân bằng khủng bố đe dọa và bóp bao tử, do toan tính tước mọi phương tiện sinh hoạt của các tôn giáo, hàng lãnh đạo CSVN đã đề ra một chương trình Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) bằng đủ biện pháp nham hiểm và tàn nhẫn, qua một công cụ hết sức đặc biệt và chưa từng có là Tòa án nhân dân với những màn đấu tố mà cho đến nay vẫn là một nỗi kinh hoàng cho dân Việt. 

Theo hầu hết các nhà nghiên cứu, cuộc CCRĐ đã kéo dài 7 năm (1949-1956), trải qua 5 giai đoạn, đánh dấu bằng những sắc lệnh, ban đầu nhẹ nhàng và mỵ dân, tiến dần đến sắt máu và triệt để với Sắc luật về CCRĐ (14-6-1955), cho phép nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản của những“tên thực dân, địa chủ gian ác, cường hào ác bá, Việt gian phản động”, truất hữu đất đai của các tôn giáo, gọi là để phân chia lại cho nông dân không đất, gia đình thương binh, chiến sĩ, liệt sĩ... Thế nhưng chính việc quy định thành phần xã hội, phân chia tài sản một cách bất công và với thâm ý tước đoạt quyền tư hữu đất đai đã gây nên bao cảnh giết chóc cùng đổ vỡ. Và rồi, những kẻ được phân chia ruộng đất sau đó phải trả lại tất cả cho nhà nước qua Hợp tác xã...

Trong mấy ngàn năm lịch sử dân tộc, có lẽ không biến cố nào đau thương bằng sự kiện ấy. Đau thương vì đó là cuộc đảo lộn xã hội nông thôn Việt Nam một cách toàn diện từ kinh tế tới văn hóa đến luân lý do một chủ trương cải tạo nông nghiệp quá ư lạ lùng và tàn nhẫn. Vì đó là cuộc tàn sát trực tiếp lẫn gián tiếp gần nửa triệu nông dân chỉ trong thời gian ngắn mà không phải bằng bom đạn chiến tranh. Vì kết quả có được chỉ là sự suy sụp nông nghiệp, tan hoang làng xóm, đổ vỡ tình người, băng hoại đạo đức, ách nô lệ khoác lên toàn thể nhân dân miền Bắc.

Đến tận hôm nay, nhà cầm quyền cộng sản vẫn tiếp tục tước đoạt quyền tư hữu đất đai của người dân, và các tòa án nhân dân vẫn tiếp tục là công cụ cộng sản dùng để bịt miệng, trói tay, giam thân những ai muốn đòi công lý và sự thật. Thành ra, việc nhìn lại cuộc Cải cách Ruộng đất là một kiểu ôn cố tri tân cần thiết cho mọi người dân Việt. Và cũng là điều cần thiết để đem lại công lý cho những người đã khuất.

Đảng cộng sản dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh đã thực hiện CCRĐ trong tính toán của mình và theo tinh thần của “đàn anh” Trung Quốc cộng sản (Trung cộng) làm trong “Cải cách văn hóa”

Điều này cũng không có gì quá ngạc nhiên vì trong các chế độ cộng sản, bản chất của Cải cách Ruộng đất là đảo lộn toàn bộ tổ chức xã hội bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối với tất cả ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu, trâu bò và dụng cụ sản xuất như cày, bừa, cuốc, xẻng v.v...

Thực chất vấn đề là nó biến cuộc nổi dậy theo cách gọi của Việt Minh thành một cuộc trả thù đẫm máu. Nó không khác gì một cuộc diệt chủng áp dụng lên chính đồng bào của mình.

Chiến dịch CCRĐ xảy ra vào giai đoạn mà đảng Cộng sản Việt Nam đã củng cố được địa vị lãnh đạo và quyền lực. Sau khi cướp được chính quyền vào năm 1945, đảng cộng sản đã tiêu diệt các lực lượng và đảng phái quốc gia cũng như dân tộc khác từ năm 1946. Trong giai đoạn từ 1946 đến 1950, đảng cộng sản Việt Nam bị tách biệt với phong trào cộng sản Quốc tế, không thể nhận sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc và vì còn yếu nên còn cần sự hợp tác của các thành phần không Cộng sản trong hàng ngũ Việt Minh. Khi đảng cộng sản Trung Quốc chiếm được chính quyền tại Trung Quốc tháng 10-1949, biên giới Việt Nam–Trung Hoa thông thương được.

Cộng sản Việt Nam được Trung cộng viện trợ vũ khí, huấn luyện cán bộ. Lúc đó đảng cộng sản cũng đã nắm vững tình hình trong nước nên có thể thi hành biện pháp có tính cách Cộng sản mà trước đây đảng cộng sản chưa thể làm vì chưa đủ sức chống đỡ với sự phản đối của quần chúng và các tổ chức không theo cộng sản.

Chiến dịch Cải cách Ruộng đất và một số các chiến dịch thuộc vào giai đoạn hai trong sách lược cách mạng vô sản của đảng Cộng sản: giai đoạn đầu là Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân, giai đoạn hai là giai đoạn Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa. Chỉ từ giai đoạn hai trở đi thì các đặc tính của cộng sản mới lộ ra. Đây là chiêu lừa đảo rất tinh vi của cộng sản. Họ lợi dụng cách mạng dân tộc để lừa bịp nhân dân chiến đấu, đóng góp cho chế độ độc tài kéo dài đến ngày hôm nay.

Tại văn kiện đại hội đảng để thực hiện việc cải cách ruộng đất (Nhà xuất bản chính trị đảng cộng sản Việt Nam- trang 5) có đánh giá:

“...Việc đấu tranh giai cấp giữa địa chủ và nông dân đã được đặt ra ngay từ khi thành lập Đảng. Đây là vấn đề bức thiết cần phải thực hiện trong thời gian tới đây. Chúng ta nhận thấy rằng từ có từ 90% đến 95% dân chúng Việt Nam là nông dân, và trong số này thì chỉ có khoảng 5% là địa chủ phú nông, còn đa số đều là người làm thuê, làm mướn, tá canh, tá điền. Do đó, chúng ta muốn làm cách mạng xã hội phải lôi cuốn được khối đa số đó, phải thỏa mãn khối đa số đó bằng quyền lợi để tiến hành cách mạng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội...

Như vậy, qua đây có thể thấy đảng cộng sản chỉ muốn lợi dụng số đông nông dân có dân trí kém để thúc đẩy một cuộc cướp bóc, trả thù đẫm máu với giai cấp trí thức hơn. Họ nhằm hai mục tiêu:

(1) Đạt được ý nguyện cướp bóc, trả thù;

(2) lợi dụng đó làm bàn đạp cho chế độ đảng trị khi trói buộc lợi ích của nông dân vào thòng lọng giăng sẵn.

Tất cả các văn bản, công văn về CCRĐ có trong cuốn: Tập hợp văn kiện văn bản của đảng trước 1975 (Nhà xuất bản văn hóa- của đảng cộng sản) và một số lưu tại thư viện quốc gia Việt Nam. Đây là các tài liệu của đảng cộng sản, được đảng cộng sản công khai. Quý vị có thể kiểm chứng. Hoặc có thể truy cập vào:
sẽ có đầy đủ các văn bản tại phần trên (Website này là thư viện pháp luật của bộ tư pháp Việt Nam).
của bộ tư pháp chính phủ CHXHCNVN lưu trữ.

1. Tiến hành:

Từ 1949 đến 1956, Việt Minh Cộng sản mở năm đợt Cải cách Ruộng đất (CCRĐ). Sau mỗi đợt, Việt Minh tổ chức hội nghị rút ưu khuyết điểm, để rồi tiến hành tiếp đợt khác. Trong hai đợt đầu (1949 và 1950), Việt Minh thực hiện cải CCRĐ nhẹ nhàng để phục vụ nhu cầu lương thực, nuôi quân trong hoàn cảnh chiến tranh.

Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng sản chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trung cộng thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng Cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối Cộng sản. Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang Trung cộng học tập phương pháp CCRĐ triệt để, vì lúc đó mối liên hệ Xô-Trung còn bình thường và vì Việt Nam nằm sát biên giới Trung cộng. (Links:http://tennguoidepnhat.net/2012/04/06/về-chuyến-tham-bi-mật-lien-xo-va-trung-quốc-nam-1950/) Đây là trang web của ban tuyên giáo Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.

Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng Cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao động ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Về lý luận, đảng Lao động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin... lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam... Tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin”. (Trích Hồ Chí Minh toàn tập-Sách của đảng cộng sản Việt Nam). Chẳng những thế, cũng trong Đại hội này, Hồ Chí Minh còn nhiều lần tuyên bố: “Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được”. (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63.) 

Để tiến hành CCRĐ, sau Đại hội 2, Việt Minh cử người sang Trung cộng tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lênin tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng sản các nước Á Châu như Indonesia, Mã Lai, Thái Lan, Pakistan, Philipin, Nhật Bản, chính là để học phương thức CCRĐ theo đường lối Trung cộng. Phái đoàn nầy trở về liền được đảng LĐ gởi tổ chức thí điểm CCRĐ, bắt đầu phát động "giảm tô, giảm tức" ở vài tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.

Các thành phần theo quy định của Việt Minh cộng sản. Đối với các thành phần nông nghiệp, VM ra sắc lệnh vào tháng 3-1953 ấn định các thành phần xã hội ở nông thôn như sau (Bernard Fall, sđd. tr. 283):

Địa chủ: là những người có nhiều ruộng đất mà không trực tiếp canh tác. Địa chủ được chia thành ba hạng: địa chủ thường (có khoảng dưới 5 mẫu ta, đủ ăn, không phạm tội ác ôn dưới thời Pháp thuộc), địa chủ cường hào ác bá (những người hiếp đáp, ngược đãi bần nông và bần cố nông), địa chủ phản động (quan lại phong kiến, Việt Quốc, Đại Việt, hay thân Pháp).

Phú nông: có khoảng 3 mẫu ta đất, có một con trâu, tự đứng ra canh tác và thuê nông dân trong việc canh tác.

Trung nông: có dưới 3 mẫu ta, trực canh, đủ sống. Trung nông chia thành 2 loại: trung nông cấp cao (có dưới 3 mẫu ta, có một con trâu hay bò), và trung nông cấp thấp (có dưới 1 mẫu ta ruộng).

Bần nông: có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm thuê cho địa chủ hay thuê đất của địa chủ rồi trả địa tô.

Bần cố nông: hoàn toàn không có đất, không có gia súc, không có nông cụ, làm thuê đủ thứ nghề để sống. (Lâm Thanh Liêm, bđd. sđd. tt. 187-188).

Đường lối đấu tranh CCRĐ là: dựa vào bần cố nông, lôi kéo (tranh thủ) trung nông, cô lập phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ. (Trích trong hồ sơ của hội đồng CCRĐ- thư viện pháp luật Việt Nam).

Khích động khát máu - "Thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch": Để khích động nông dân hưởng ứng cuộc CCRĐ, ban cải cách phải theo đúng ba giai đoạn đề ra do sắc lệnh ngày 12-4-1953 như sau:

Thứ nhất: kích động tâm lý quần chúng chống lại các địa chủ bằng cách đưa cán bộ về thực hiện "tam cùng" hay "tam đồng" với bần nông, để "thăm nghèo hỏi khổ" và sau đó "bắt rễ, xâu chuỗi".

Thứ hai: Sau khi len lỏi "bắt rễ xâu chuỗi", và nhờ thông tin của rễ chuỗi nầy, nắm vững tình hình các gia đình trong địa bàn hoạt động, cán bộ bắt đầu đánh giá và xác định lại các thành phần xã hội đã được Ủy ban hành chánh địa phương sắp xếp theo Sắc lệnh tháng 3-1953 nêu trên. Từ đó, đội công tác mới quyết định các đối tượng sẽ bị đấu tố. Đây là cơ hội giải quyết những ân oán đã có từ trước ở trong làng, ví dụ rút địa chủ xuống hàng phú nông cho nhẹ tội, hay ngược lại đưa phú nông lên hàng địa chủ cho nặng tội.

Thứ ba: Thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những "kẻ có tội với nhân dân". Để việc xét xử đạt kết quả đúng yêu cầu của đảng LĐ, các bần nông được tổ chức chặt chẽ và sửa soạn kỹ càng để họ chủ động đấu tố.

Trong năm 1953, mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ để tiến hành CCRĐ, nhưng vào đầu năm 1954, chiến tranh đến hồi khốc liệt và sắp kết thúc, chính phủ Việt Minh bận giải quyết chiến trường, vận động ngoại giao, rồi ký kết Hiệp định Genève nên cuộc CCRĐ tạm đình hoãn vì sợ tiếng vang lan truyền khắp nơi, khiến dân chúng lo sợ bỏ di cư vào Nam. Việt Minh chỉ đình hoãn CCRĐ chứ không bãi bỏ.

Sau Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đảng Lao Động cai trị phía bắc vĩ tuyến 17 (bắc sông Bến Hải, Quảng Trị). Ổn định xong tình hình, đảng Lao động mở lại cuộc CCRĐ giai đoạn 5. Lần này việc tổ chức có quy củ rõ ràng, do Ủy ban CCRĐ đứng đầu.

Ủy ban cải cách: gồm hai cấp trung ương và địa phương. 

Cấp trung ương: do Tổng bí thư đảng Lao động là Trường Chinh - Đặng Xuân Khu làm chủ tịch, có ba người phụ tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương (đều là ủy viên Bộ chính trị) và Hồ Viết Thắng (ủy viên Trung ương đảng). Hồ Viết Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp điều hành cuộc Cải cách theo mệnh lệnh của Trường Chinh. Hồ Viết Thắng đã từng đi học ở Trung cộng, được Trường Chinh giao nhiệm vụ mở "Trung tâm đào tạo cán bộ Cải cách Ruộng đất" tại chiến khu Cao Bắc Lạng.

Cấp tỉnh: Hồ Viết Thắng bổ nhiệm những người đã được đào tạo về các tỉnh tổ chức các đoàn CCRĐ. Trung bình mỗi tỉnh có 10 đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ do một đoàn trưởng đứng đầu, quyền hạn tương đương với một bí thư đảng cấp tỉnh, nhận lệnh trực tiếp từ Ban cải cách trung ương, không qua trung gian hệ thống đảng hay chính quyền địa phương. Mỗi đoàn gồm nhiều đội, mỗi đội có khoảng 6 hay 7 cán bộ. Đội trưởng được chọn trong số bần nông hay bần cố nông, nhất là những người đã từng có kinh nghiệm tham gia các CCRĐ trước đây. Các đội có quyền hạn tuyệt đối, nhận lệnh thẳng từ Ủy ban CCRĐ, đúng như câu tục ngữ lúc đó"nhất đội nhì trời", được quân đội bảo vệ để thi hành công tác, và được nhà cầm quyền địa phương cung cấp đầy đủ tài liệu theo chính sách của đảng và nhà nước. (Lâm Thanh Liêm, sđd., bđd. tt. 184-185).

Nguyên tắc hành động căn bản của các Ủy ban CCRĐ là câu khẩu hiệu: "Thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch" (trích trong hồ sơ của hội đồng CCRĐ - thư viện pháp luật Việt Nam). Chính câu khẩu hiệu nầy đã đưa đến việc giết hại tràn lan biết bao nhiêu lương dân vô tội.

Câu khẩu hiệu này xuất hiện trong bài diễn văn của luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956, cuộc cải cách ruộng đất được thực hiện với phương châm "thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch". Phương châm này đi ngược lại với quy tắc cơ bản của pháp luật, trong trường hợp này là "thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan". Cụ thể các quy tắc pháp lý đã bị xâm phạm là:

Không xử phạt các tội đã phạm quá lâu đến hiện tại mới điều tra ra. Trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình phạm nhân chịu, không quy kết cho vợ con, gia đình. Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị can. Bị can có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá trình truy tố và xét xử; khi bị can ra trước tòa không được xiềng xích và không được dùng nhục hình.

Đoàn và đội công tác phóng tay phát động quần chúng đấu tranh CCRĐ hoạt động theo kiểu khủng bố: Bí mật đến một địa phương nào đó, bí mật hành động... và gieo rắc tai ương khủng khiếp cho địa phương. Không những chỉ địa chủ, phú nông sợ hãi mà toàn thể dân chúng và cả các cấp chính quyền cũng như quân đội địa phương đều sợ hãi, vì bất cứ ai cũng có thể bị dính tên vào sổ đấu tố mà không ai có thể đoán lường trước hậu quả. 

Tòa án nhân dânSắc lệnh năm 1953 cũng như Sắc lệnh năm 1955 đều thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những tội phạm trong CCRĐ. Tòa án nầy được tổ chức ở những vùng có cải cách, chánh án là một đội viên trong đội cải cách, biện lý (công tố) là một nông dân hay bần nông đã từng làm việc (gia nhân, tá điền...) trong nhà của bị cáo, biết rõ lý lịch khổ chủ. Các quan tòa nầy chỉ là những kẻ dốt nát, lâu nay thấp kém, bỗng chốc được cất nhắc lên địa vị quan trọng, nên hạch sách trả thù, moi ra hay bịa đặt mọi thứ gọi là thói hư tật xấu của khổ chủ, đặc biệt là tội dâm ô, để đấu tố. Đặc biệt trong tòa án nhân dân không có người đóng vai trò luật sư biện hộ, và cũng chẳng ai dám biện hộ cho bị cáo cả. Quân đội bảo vệ tòa án và những người tham dự đều là những người do cộng sản sắp đặt trước, hò hét khuyến khích người đóng vai "công tố", bằng cách chửi rủa hoặc tố cáo thêm những “tội ác”.

2. Hậu quả của cải cách ruộng đất:

Cộng sản độc quyền đất đai:

a. Theo nguồn tin từ phía Liên Xô, cuộc Cải cách Ruộng đất đã tịch thu 702.000 mẫu tây ruộng đất, 1.846.000 nông cụ, 107.000 trâu bò, 22.000 tấn thực phẩm. Tất cả những thứ đó đã được chia lại cho 1.500.000 gia đình nông dân và bần nông. Như thế mỗi gia đình nhận được 0,46 mẫu tây, một nông cụ, và những gia đình 13 người mới nhận được một con trâu hay bò. Theo tác giả Bernard Fall, một gia đình nông dân bốn người cần có ít nhất 1,5 mẫu tây để bảo đảm đời sống, đó là chưa kể đến thuế nông nghiệp phải đóng hằng năm. (Bernard Fall, sđd. tt. 271, 282).

b. Hoặc tài liệu của đảng cộng sản trích trong cuốn: (Những điều cần nhìn lại sau CCRĐ- NXB Văn hóa- của ĐCSVN): “Cải cách Ruộng đất đã tịch thu của bọn địa chủ và cường hào 760,000 mẫu ruộng đất canh tác, 112,.000 con trâu bò và gia súc, 26,000 tấn thực phẩm, lương thực... Sự phân chia đất đai theo đơn vị gia đình, dựa trên số thành viên thực sự lao động và không dựa trên giới tính.”

Tuy chia đất cho nông dân, nhưng sau cuộc CCRĐ, cộng sản tổ chức những hợp tác xã nông nghiệp, và ép nông dân phải gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Quá khiếp sợ trước cảnh tra tấn trong CCRĐ, không một nông dân nào dám phản đối. Thế là tất cả nông dân phía bắc vĩ tuyến 17 đều phải gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Khi vào hợp tác xã, ruộng đất riêng tư của nông dân đều phải nạp cho hợp tác xã, và trở thành ruộng đất tập thể của hợp tác xã. Thế là chẳng những số đất đã được chia, mà cả đất đai do cha ông để lại, cũng đều bị lọt vào tay hợp tác xã, tức vào tay nhà cầm quyền cộng sản. Toàn thể nông dân nay trở thành vô sản, và nhà cầm quyền cộng sản trở thành chủ nhân ông độc quyền của tất cả ruộng đồng nông thôn. Thật là một tiến trình cướp đất rất hoàn hảo, mà không một nông dân nào dám lên tiếng tố cáo.

Số lượng người bị giết: 

Những địa chủ “Việt gian” hay địa chủ “cường hào ác bá” đều bị tử hình. Trong trường hợp họ đã qua đời trước đó lâu ngày, vợ con họ bị đem ra xét xử và kết quả không khác. Những địa chủ Việt Nam Quốc Dân đảng (Việt Quốc) hay Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách), dầu đã theo Việt Minh tham gia kháng chiến cũng bị tử hình. Những địa chủ các đảng bù nhìn của chế độ Hà Nội như đảng Dân chủ, đảng Xã hội cũng chịu y số phận.

Khi bị tử hình, bản án tử hình được thi hành ngay tại chỗ bằng nhiều cách: bị bắn, bị trấn nước chết, bị phơi nắng (không được ăn uống), hoặc bị đánh đập cho đến chết. Nhiều khi nạn nhân qua đời, thân nhân không được cho phép chôn cất, xác bị để phơi nắng mưa. Gia đình quá đau lòng, phải hối lộ các chức việc, rồi ban đêm đến ăn cắp xác đem đi chôn.

a. Dựa vào tài liệu các nước ngoài, giáo sư Lâm Thanh Liêm, cho rằng số người bị giết trong cuộc CCRĐ năm 1955-1956 ở Bắc Việt có thể lên đến từ 120.000 đến 200.000 người. (Lâm Thanh Liêm, bđd., sđd. tt. 203-204).

b. Theo sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài liệu mới của nhà nước cộng sản Việt Nam) cho biết cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3.563 xã, có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến 172.008 người, trong đó có 123.266 người (71,66%) sau này được xác nhận đã bị giết oan.

c. Trong chiến dịch CCRĐ giết người có chỉ tiêu rõ ràng, cái chỉ tiêu ác độc ấy phải giết địa chủ ở mỗi xã cho đủ 5% dân số hoặc nhiều hơn càng tốt, càng được khen thưởng. Theo nhà văn Tô Hoài: “Thế mà vượt hết, thắng lợi lớn, toàn đoàn truy được hơn năm trăm địa chủ lọt lưới, đến bước ba đưa tỷ lệ 5% lên 7,24% đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ về chính trị cũng như về kinh tế”. (Ba người khác - trang 206)

d. Nhà văn Trần Mạnh Hảo, rất bức xúc với cái tỷ lệ giết người trong chiến dịch CCRĐ ở làng của ông cao hơn các nơi khác: “Làng tôi là làng công giáo Bùi Chu Phát Diệm, là làng tề, làng bị gọi là ác ôn, nên chỉ tiêu địa chủ trên giao nặng nhất: phải bắt cho được 15% địa chủ là Bình Hải Đoài. Nghĩa là cứ 100 người dân thì phải nộp cho bác và đảng 15 tên địa chủ”. (Thời Luận ngày 1-4-2006)

Chính vì các đội cải cách thi đua lập thành tích cho nên con số người dân vô tội đã bị giết một cách dã man đưa con số lên đến hàng trăm ngàn:

e. “Ông Bùi Tín, một người bất đồng quan điểm với chính phủ Việt nam cũng nêu lên con số nạn nhân là 500.000 người do Michel Tauriac, nhà văn người Pháp đưa ra. Bùi Tín cho rằng con số nầy cũng hợp lý nếu kể cả người bị giết, bị chết trong tù, bị chết sau khi thả ra và tự tử” (Wikipedia tiếng Việt online ngày 19-5-2006).

f. “Một ý kiến cực đoan là của Hoàng Văn Chí, người tin rằng 5% dân số miền Bắc (675.000 người đã chết). Cuốn sách From Colonialism to Communism của ông nầy đã có tác động mạnh đến cuộc tranh luận về vấn đề con số” (BBC online ngày 28-12-2006).

d. Các con số có thể kiểm chứng thêm tại links sau: 

g. Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 người bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.

Hay như trong cuốn Ownership Regimes in Vietnam có đoạn nêu lên con số người chết là:165.230 người bị bắt oan sai và có khoảng 70% trong số này bị giết hại bằng tử hình tại chỗ hoặc chết trong ngục tù.

Nền nông nghiệp bị suy sụp: 

Thông thường, nhà cầm quyền tổ chức CCRĐ nhắm giải quyết những sai lầm của nền nông nghiệp cũ, giúp nông gia tăng gia sản lượng nông nghiệp, thăng tiến đời sống dân chúng. Nhưng cuộc CCRĐ của Cộng sản chấm dứt năm 1956 lại đi đến kết quả ngược lại: đời sống nông dân tụt hậu, sản lượng giảm xuống rõ rệt. Lý do vì trong các giai đoạn đầu của cuộc Cải cách, đất đai bị chia thành nhiều mảnh nhỏ. Nông dân mới nhận đất chưa có kinh nghiệm tổ chức sản xuất, thiếu tài chánh để mua trâu bò dụng cụ, phân bón để cày cấy. Sau đó, vào cuối giai đoạn 5, việc suy sụp kéo dài nhiều năm vì nhà nước cộng sản đưa ra kế hoạch hợp tác lao động, tổ chức hợp tác xã nông nghiệp và những nông trường quốc doanh tập thể từ khoảng năm 1957, 1958. (Bernard Fall, sđd. tt. 284-287).

Đảo lộn luân lý xã hội, tiêu diệt tình người: 

Chiến dịch CCRĐ của cộng sản đã khủng bố tinh thần dân chúng, làm cho mọi người sợ hãi khép mình vào kỷ luật cai trị cộng sản, và nhất là đánh tan nề nếp xã hội cũ, làm sụp đổ nền tảng luân lý cổ truyền của dân tộc, tiêu diệt tận gốc rễ tình cảm giữa người với người. Trong khi quyết tâm thực hiện phương châm “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn” (nghĩa là tiêu diệt từ trên xuống dưới bốn thành phần trí thức, phú thương, địa chủ, cường hào), cộng sản đã khuyến khích, ép buộc, đe dọa mọi người tố cáo, đấu tố lẫn nhau, dù đó là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Do đó, chẳng những đã xảy ra cảnh đấu tố giữa người với người ngoài xã hội, mà trong gia đình cũng xảy ra cảnh đấu tố với nhau giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng, và anh chị em.


Những hình ảnh đấu tố do nhiếp ảnh gia Liên Xô 
Dmitri Baltermants (1912-1990) chụp tại Việt Nam 1955.

a. Nhạc sĩ Trịnh Hưng, hiện đang ở bên Pháp, là người bạn thân vừa về thăm thi sĩ Hữu Loan và kể lại câu chuyện có liên quan đến tác giả bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim như sau:

“Ông ấy kể tôi nghe là: Lúc ấy, ông ấy là trưởng Ban Tuyên huấn của Đoàn 304, do tướng Nguyễn Sơn phụ trách, quân đội thì đói khổ lắm, chỉ có ăn khoai, ăn sắn, không có gạo mà ăn... Ông địa chủ đó thì giàu, tháng nào cũng đem gạo đến, để nuôi quân cho... Chính tướng Nguyễn Sơn tháng nào cũng làm lễ vinh danh cho ông ta, ban thưởng huân chương.

“Năm 1953, bị đấu tố, lan đến Thanh Hóa, ông bà địa chủ ấy bị giết chết. Nhà thì chỉ có một cô con gái thôi. Nó cấm tất cả mọi người, con trai, hay con gái, không được kết hôn với con nhà địa chủ, không được nuôi con nhà địa chủ.

“Ông ấy (nhà thơ Hữu Loan) thấy bực quá, mới bỏ về làng, đi qua làng ấy, ông ghé vào thăm, ông biết rằng ông bà cụ bị giết rồi, cô con gái không ai nuôi cả, cô ấy phải đi mót sắn, mót khoai ở ngoài đồng, ăn sống, để sống thôi, quần áo rách rưới bẩn thỉu lắm, ngủ ở đường, ở đình làng, ông thấy thế, thương hại và đem về nhà nuôi... và bây giờ là vợ ông ấy!” (RFA online ngày 19-5-2006)

b. Nhà văn Trần Mạnh Hảo, người bị đuổi ra khỏi đảng CSVN năm 1989 và đuổi khỏi biên chế nhà nước viết cuốn “Ly thân” có bài “Độc quyền chân lý là thủ tiêu chân lý”, đoạn ông viết về CCRĐ:

“Ông đội (tên gọi cán bộ CCRĐ từ trung ương phái về) từ trên bàn xử án xông tới sát ông Luân bị trói, bị chôn chân tới đầu gối trong chiếc “hố đấu tố”, đoạn hét: “mày có hô CCRĐ muôn năm không?” Ông Luân trợn mắt, đôi mắt sưng tấy, lòi cả con ngươi ra...

“Sau đó, ông đội lên bàn xử án, tuyên bố thay mặt đảng và bác vĩ đại, tuyên án xử tử hình gián điệp Quốc Dân đảng Luân, lệnh du kích xã lên đạn rốp rốp thị uy; đoạn trói nghiến ông Luân vào cọc bắn trên ruộng cạn mùa đông đang rét...

“Ông Luân bị bắn bằng bốn cây súng trường. Bốn phát đạn cùng lúc đều trúng vào ngực ông Luân phụt máu, khiến ông gục xuống liền, cái giẻ nhét miệng ông bị máu trào ra, rơi bịch xuống như một cục máu đông, hay một mảnh phổi vở tràn ra ngoài”. (Thời Luận ngày 1-4-2006)

c. Dưới đây là chuyện của cựu trung tá QĐND Trần Anh Kim, hiện đang ngồi tù 5 năm rưởi về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” đã trả lời phỏng vấn của Việt Hùng, phóng viên đài RFA kể về hoàn cảnh của gia đình ông bị xử một cách dã man trong chiến dịch CCRĐ như sau:

“Đến CCRĐ, sau năm 1954 giải phóng, sau đó giảm tô, đến CCRĐ thì người ta quy cho ông tôi là địa chủ, và quy cho bố tôi là QD đảng. Bố tôi là Phó bí thư QD đảng và bác tôi là Bí thư QD đảng. Bác tôi bị bắn luôn, ông ấy nhận thì bị bắn luôn. Còn bố tôi thì kiên quyết không nhận. Không nhận thì người ta tra tấn, người ta thắt hai dây thừng vào hai ngón chân cái rồi người ta kéo lên sàn nhà, bố tôi đau quá, kêu khóc xin thả xuống. Kêu khóc quá to thì người ta, lấy rơm, lấy rạ nhét vào mồm...

“Địa chủ ngày đó là địa chủ “phân” anh ạ. Thí dụ mỗi thôn là mấy địa chủ thì cứ thế mà người ta đưa lên thôi. Cuối cùng cũng bị tù không án hai năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi đi tù nhiều. Tức là tay thì trói cánh khuỷu ra đàng sau, chân thì cùm, quần áo thì chẳng có mặc, cứ nằm như thế ở dưới sàn chuồng trâu thôi”. (RFA online ngày 19-5-2006)

d. Để cổ vũ cho phong trào diệt chủng “Thà sai hơn bỏ sót”, cộng thêm với việc “Thi đua lập thành tích chống phong kiến” đã gây tình trạng “kích thành phần”,“nống thành tích”,cố tìm ra nhiều địa chủ, phản động, xử tử nhiều ác bá... để có được bằng khen, huân chương, để ngoi lên địa vị cao hơn... hai nhà thơ cộng sản lúc bấy giờ thi nhau làm thơ cổ động chiến dịch một cách hiếu sát như sau:

1- Tố Hữu:
“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghĩ
 Cho ruộng đồng mau tốt, thuế mau xong
 Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
 Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin… bất diệt”
 (Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 37)

2- Xuân Diệu: 
“Anh em ơi! quyết chung lòng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tư thù
Địa hào đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi”.
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 38)

Lời kể của người trong cuộc:

a. Ông Nguyễn Minh Cần, một người từng là phó Chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội và trực tiếp tham gia chiến dịch sửa sai cũng phân tích về những hậu quả của cuộc CCRĐ. Trong cuộc phỏng vấn BTV đài Á Châu tự do - Nguyễn An và ông Nguyễn Minh Cần sau đây: 

Nguyễn An: Thưa ông, bây giờ trở lại cuộc CCRĐ cách đây 50 năm. Theo ông thì cuộc CCRĐ đó để lại những hậu quả gì, di hại gì? 

Ông Nguyễn Minh Cần: Cái CCRĐ ở miền Bắc Việt Nam để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng về rất nhiều mặt. 

Nguyễn An: Xin Ông vui lòng phân tách từng điểm một!

Ông Nguyễn Minh Cần: Điểm thứ nhất: Đây là một cuộc tàn sát dân lành một cách vô tội vạ. Nếu nói theo từ ngữ hiện nay thì phải nói đây là một cuộc diệt chủng vì kỳ thị giai cấp. Bỗng dưng lập ra lệnh CCRĐ, đưa những đoàn người về và tha hồ qui người ta lên là địa chủ. 

Trên 172.000 người là nạn nhân. Tôi còn phải nói đến số người mà người ta oan ức quá, bực bội quá, người ta tự tử. Số đó cũng không phải là ít. Theo tôi, hậu quả đó rất lớn, nó gây ra một tâm trạng sợ sệt, khủng khiếp của người dân. 

Hậu quả thứ hai là phá hoại truyền thống hòa hiếu của nông thôn, là vì từ trước ai nói dù rằng có thể có bóc lột, có thể có gì đấy với nhau, nhưng người nông dân sống với nhau là lá lành đùm lá rách, rất hòa hiếu với nhau. 

Cuộc CCRĐ về xúi người này bới móc tội lỗi của người kia, và có thể những tội hoàn toàn không có cũng bới ra. Và dựa vào những thù cũ rồi gây ra thù hận giữa các tầng lớp với nhau. Chính cái đó nó phá hoại truyền thống đoàn kết lâu đời của người VN mình ở nông thôn. 

Nguyễn An: Thưa ông, có phải ông muốn nói rằng cuộc CCRĐ đặt trên cơ sở là gây sự căm thù để phát động quần chúng, và sau đó sự căm thù đó lớn rộng và nó tiếp tục còn lại sau khi cuộc CCRĐ đã chấm dứt không? 

Ông Nguyễn Minh Cần: Đúng như vậy. 

Nguyễn An: Thưa điểm thứ ba là gì? 

Ông Nguyễn Minh Cần: Hậu quả thứ ba là phá hoại đạo lý luân thường của dân tộc. Từ xưa đến nay cha đối với con, mẹ đối với con, vợ chồng đối với nhau, họ hàng cha chú đối với nhau đều có một luân thường đạo lý. Nhưng CCRĐ về xúi giục con tố cha, vợ tố chồng, nàng dâu tố mẹ chồng, bố chồng v.v... đấu đá lẫn nhau như vậy. 

Nguyễn An: Và gọi mày tao mi tớ hết? 

Ông Nguyễn Minh Cần: Vâng. Như vậy, luân thường đạo lý tan hoang. 

Nguyễn An: Thưa ông, theo ông thì những cái mà phá hoại nền tảng luân lý đạo đức, rồi sự hòa hiếu ở trong nông thôn đó cách đây 50 năm thì được khai thác tối đa để hoàn thành cuộc CCRĐ... tinh thần như thế sau bao nhiêu lâu mới phục hồi được? Hay bây giờ nó vẫn còn là những vết thương rỉ máu? 

Ông Nguyễn Minh Cần: Theo tôi, vì cho đến nay chưa có một sự sám hối rõ ràng. Chưa có một tuyên bố rằng chính sách hận thù giai cấp là một chính sách không đúng. Phải nói thật rằng bây giờ thì 50 năm đã qua thì người ta yên như vậy, nhưng lòng hận cũ không phải là đã hết. 

Còn một điểm tôi cũng muốn nói nữa là hậu quả thứ tư: Nó phá hủy truyền thống tâm linh và văn hóa của dân tộc. Vì khi làm CCRĐ thì các ông đều có cái ý hướng là tiêu diệt các tôn giáo, chèn ép các tôn giáo, tước đoạt tài sản của các tôn giáo để làm cho các tôn giáo không tồn tại được một cách độc lập.

b. Hỏi chuyện nhà văn Vũ Thư Hiên

(Phóng viên báo CE, 2006 - http://www.doi-thoai.com/vth_vuthuhien13.html)

CE: Vừa qua, một số tổ chức chính trị tại hải ngoại có tổ chức kỷ niệm 50 năm Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam. Thưa nhà văn Vũ Thư Hiên, ông có nghĩ rằng đây cũng lại là một sự ôn nghèo kể khổ theo truyền thống lâu nay của dân tộc ta không ạ?

Nhà văn Vũ Thư Hiên: Bạn nghĩ rằng "ôn nghèo kể khổ" là truyền thống của dân tộc ta ư? Thế thì khổ thật đấy. "Ôn nghèo kể khổ" chỉ là một cách khêu gợi lòng căm thù của quần chúng đối với các giai cấp bóc lột, nói theo cách của cán bộ Cải cách Ruộng đất vào thập niên 50 của thế kỷ trước. Tôi không thấy có "một số" tổ chức chính trị hải ngoại kỷ niệm 50 năm Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam. Tôi biết có một tổ chức làm chuyện đó là Mạng Lưới Dân Chủ, dưới đầu đề "Không quên những nạn nhân Cải cách Ruộng đất", tại Berlin. Nhưng không nên nghĩ đó là một sự "ôn nghèo kể khổ" tương đương với cái "ôn nghèo kể khổ" từng diễn ra ở nông thôn Việt Nam.

CE: Thưa, vào cái hồi Cải cách Ruộng đất xảy ra ấy, ông đã bao nhiêu tuổi, và ông đang làm gì? Ở đâu?

Nhà văn Vũ Thư Hiên: Hồi ấy tôi mới 20 tuổi. Tôi còn rất ngây thơ về chính trị. Tôi tin thật ở khẩu hiệu "người cày (phải) có ruộng", nên phải làm Cải cách Ruộng đất. Nghĩa là tôi tin ở sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản. Tôi lúc đó làm nghề quay phim. Tôi làm phụ quay phim cho nhà quay phim Liên Xô Eshurin trong ê-kíp làm phim "Việt Nam trên đường thắng lợi" (hay "Việt Nam chiến đấu", theo tên Nga) của đạo diễn Roman Karmen. Đội của Eshurin có trách nhiệm quay một đoạn về Cải cách Ruộng đất tại Thanh Hóa. Cảnh cha con người nông dân kéo cày thay trâu ngày nay được coi như ảnh tư liệu trong các bảo tàng Việt Nam về đời sống nông dân trong thời Pháp thuộc là do tôi chụp chính trong thời kỳ đó, ở gần đầm Rủn, Thanh Hóa. Đó là một cảnh dựng lại để quay phim, không phải cảnh thật. Hồi ấy tôi thành thật tin rằng có thể dựng lại các cảnh cũ để rồi thừa nhận nó là thật, miễn nó giống thật. Cái đó nằm trong quan niệm của cái gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa.

CE: Đã có rất nhiều người nói về khí thế của nhân dân ta trong những ngày Cải cách Ruộng đất... Theo ông, cái hừng hực như lửa ấy ở đâu mà có, tại sao nó duy trì được và sự duy trì ấy được bao nhiêu lâu?

Nhà văn Vũ Thư Hiên: Khí thế hừng hực trong Cải cách Ruộng đất? Tôi không trực tiếp tham gia cuộc Cải cách Ruộng đất (khi nó diễn ra tôi đang học ở Moskva), tôi không làm chứng được cho cái khí thế ấy. Nhưng tôi tin rằng nó đã có, bằng vào cái mà tôi thấy trong cuộc giảm tô giảm tức đi trước Cải cách Ruộng đất từ năm 1953. Người nông dân được (hay bị) tuyên truyền rằng phải đánh đổ địa chủ cường hào gian ác thì đời sống của họ mới khá hơn, thì họ ào ào theo. Ai chẳng muốn đời sống khá hơn, nhất là trong khi đời sống hiện tại thì lại quá cay cực? Đáng buồn là trong khí thế đi tìm cái đời sống khá hơn người ta quên bẵng nhiều thứ: đạo đức, tình thương yêu giữa con người với con người, quyền con người của người khác... Đảng cộng sản khuyến khích sự quên đó.

CE: Thưa nhà văn Vũ Thư Hiên, ông có được chứng kiến một cuộc đấu tố nào không? Người ta đã tiến hành nó như thế nào vậy?

Nhà văn Vũ Thư Hiên: Tôi được chứng kiến một cuộc đấu tố duy nhất. Đó là cuộc đấu địa chủ Nguyễn Bá Ngọc tại Thanh Hóa. Tôi, với tư cách người quay phim, tôi được có mặt ở mọi chỗ. Kể chuyện người ta tiến hành nó như thế nào thì dài lắm. Tôi nói tóm lại: nó được bố trí chu đáo như một vở tuồng. Những người nông dân được tập đấu (tố cáo tội ác của địa chủ) nhiều ngày trước khi có đấu thật. Đến khi đấu thật thì đấu lưng trước (tức là địa chủ quay lưng lại người đấu), sau mới đấu mặt (mặt đối mặt). Sở dĩ phải làm như thế là vì nhiều khi người đấu nhìn thấy mặt người bị đấu thì không nỡ đấu nữa (cũng là bà con lối xóm với nhau cả!). Đến cả địa chủ cũng được các đạo diễn (ông đội) hướng dẫn tỉ mỉ: phải quỳ thế nào, không được phép ngẩng mặt lên khi nghe những câu không đúng (các ông bà nông dân bao giờ cũng đúng, đảng bao giờ cũng đúng...) Rất phường tuồng. Buồn cười không chịu được. Nhưng chỉ dám cười thầm. Có lẽ ai cũng thấy cái chất buồn cười trong hoàn cảnh rơi nước mắt ấy. Nhiều chuyện thương tâm lắm.

CE: Thưa... Trước, trong và sau cuộc Cải cách Ruộng đất, ông đã có lần nào, lúc nào được tiếp xúc với những nạn nhân của nó, và ông thấy, thái độ, tình cảnh của họ trong từng giai đoạn như thế nào?

Nhà văn Vũ Thư Hiên: Trước hết, tôi xin nói lại điều tôi đã nói nhiều lần: đảng cộng sản cầm quyền ở nước nào cũng rất giỏi sản xuất ra kẻ thù. Trong kháng chiến chống Pháp, khi chưa có viện trợ của Trung Quốc, bộ đội sống nhờ dân, mà chủ yếu là những người nông dân lớp trên, một số sau này được quy thành địa chủ cường hào gian ác. Không có họ, bộ đội không có cái ăn để đánh Pháp. Tôi biết điều đó một cách chắc chắn bởi lúc ấy tôi ở trong bộ đội. Tức là đảng cộng sản đã bịa cho những người nông dân giàu vai trò kẻ thù. Ngay cả trong trường hợp họ giàu có, họ cũng không dĩ nhiên phải chống cách mạng giải phóng dân tộc. Bằng chứng là phần nhiều đảng viên Quốc dân đảng thuộc tầng lớp này. Về sau này những kẻ thù do đảng cộng sản bịa ra rồi có trở thành kẻ thù thật của Đảng thì cũng đáng lắm. Tất nhiên, sau CCRĐ tình cảnh địa chủ (hay những người bị quy là địa chủ) thê thảm lắm. Đến cả con cái họ cũng bị trù dập, không cho đi học, không cho đi làm. Đảng CS thù dai lắm, thù theo sách (chứ người ta lúc ấy có thù gì Đảng đâu), đã thế lại còn hẹp hòi đến tởm lợm. Chẳng cứ con cái địa chủ, con cái tư sản cũng vậy. Con cái những người bị coi là đối tượng cách mạng cũng thế. Trong chuyện này gia đình tôi có kinh nghiệm bản thân. Tốt nhất là đừng có chơi với một Đảng như thế. Đã trót bắt tay nó thì nhớ xem lại tay mình còn mấy ngón.

CE: Người ta bảo, vào những ngày ấy, có thể thấy bóng dáng của các cố vấn Trung Quốc ở khắp mọi nơi... Điều đó có đúng không, thưa ông... Đã có lúc nào ông có dịp được tiếp xúc với một trong những ngài cố vấn đó không? Cảm tưởng của ông về các ngài như thế nào?

No comments:

Post a Comment