Sơ qua tình hình chính trị và kinh tế của Trung Cộng, cùng sự khác biệt giữa Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường về cải tổ kinh tế
Chu Chi Nam và Vũ Văn Lâm
- Gần đây báo chí Trung cộng, Hồng Kông và báo chí ngoại quốc, đặc biệt
là tờ Wall Street Journal, có đăng tải sự khác biệt quan điểm giữa Tập
Cận Bình và Lý Khắc Cường về vấn đề cải tổ kinh tế. Sự khác biệt này,
nhất là ở giới chóp bu, từ xưa đến giờ vẫn được giấu kín, nay được bạch
hóa.
Tại sao vậy? Chúng ta hãy cùng nhau bàn luận để nhìn rõ vấn đề hơn.
Nhưng để nhìn rõ vấn đề, chúng ta cũng cần nhìn sơ về tình hình chính trị và kinh tế nước Tàu:
I) Chính trị và kinh tế Trung cộng từ ngày mở của của Đặng Tiểu Bình
Chúng ta không ai chối cãi rằng từ ngày trở lại chính quyền, Đặng Tiểu
Bình chủ trương chính sách mở cửa, từ năm 1978 tới nay, Trung cộng đã
làm một bước tiến nhảy vọt, khác với chính sách "Đại Nhảy Vọt" của Mao
Trạch Đông vào 1958-1960 đã đưa nước Tàu vào nạn đói, đưa đến hậu quả
hàng 40 triệu dân Tàu đã chết. Bước nhảy vọt của họ Đặng không những đã
chấm dứt nạn đói, mà còn đưa Trung cộng vào hàng cường quốc kinh tế đứng
thứ nhì trên thế giới, nếu tính theo Tổng sản lượng.
Tại sao nước Tàu lại làm được một bước tiến nhảy vọt dưới thời Đặng Tiểu
Bình. Đây là một câu hỏi mà nhiều nhà quan sát, nhiều nhà kinh tế đặt
ra.
Tất nhiên khi trở lại chính quyền, họ Đặng đã lấy nhiều quyết định,
không phải là một mình, mà do một nhóm người chóp bu. Nhóm người chóp bu
này nằm trong 8 đại gia đình, theo đó:
1) Gia đình Đặng Tiểu Bình.
2) Gia đình tướng Vương Chấn, đây là một người tướng văn dốt, vũ dát,
một thảo khấu. Vào thời Mao Trạch Đông bị Tưởng Giới Thạch ruồng bắt,
phải làm cuộc Vạn lý Trường chinh, bị vây khốn, thiếu lương thực, thì đã
được nhóm thảo khấu của Vương Chấn giúp đỡ. Từ đó họ Vương đã được Mao
trao toàn quyền lo về vấn đề lương thực của quân đội, theo Mao hết mình,
sau khi Mao chết, thì theo Đặng. Chính Vương Chấn và Trần Vân, đã đề
nghị vào buổi họp Trung ương đảng vào ngày 10 đến ngày 22/03 /1977, dưới
thời của Hoa Quốc Phong, người được Mao chỉ định chính thức kế vị, rằng
cần phải phục hồi quyền lực của Đặng Tiểu Bình, nhưng đề nghị này bị từ
chối và Vương Chấn bị Trung ương khiển trách.
Vì vậy sau khi họ Đặng truất phế được họ Hoa, Vương Chấn được trọng dụng, coi như nhân vật thứ nhì của Bát đại gia.
3) Gia đình đứng thứ ba là Trần Vân, như vừa nói ở trên. Ông này được
coi như "giáo hoàng" về kế hoạch kinh tế, suốt trong thời kỳ Mao cầm
quyền, hay xa hơn nữa là từ ngày đảng cộng sản Tàu được thành lập năm
1921. Đây cũng là người ủng hộ nhiệt tình họ Đặng, chấp nhận trao quyền
kinh tế cho con cháu Bát đại gia.
4) Gia đình thứ tư là Dương Thượng Côn, đã là tay em của Đặng Tiểu Bình
từ lúc ở Liên Sô về, là Phó tướng của họ Đặng, đặc trách về Quân ủy Quân
đoàn 8, ở vùng Tây nam; sau được đưa lên Quân ủy toàn quân, rồi Chủ
tịch nước, vào thời biến cố Thiên An Môn, 1989. Người ra đón Gorbatchev ở
phi trường trong chuyến viếng thăm đầu tiên nước Tàu, chính là Dương
Thượng Côn.
5) Lý Tiên Niệm, đương kim Chủ tịch Quốc Hội lúc bấy giờ.
6) Tống Niệm Cùng, Phó thủ Tướng, đặc trách về kinh tế nước ngoài.
7) Bành Chân, Thị trưởng thành phố Bắc Kinh, đặc trách về vấn đề pháp luật.
8) Bạc Nhất Ba, cha của Bạc Hy Lai, Chủ tịch Hội đồng Cố vấn.
Bát đại gia đã lấy một số quyết định quan trọng, trên mọi lãnh vực từ
chính trị quốc nội tới hải ngoại, từ kinh tế tới canh nông rồi xã hội,
và vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trên nước Tàu, cho tới ngày hôm nay.
Đại để những quyết định đó là:
Về đối ngoại: chấp nhận chính sách mở cửa và đứng hẳn về phía tư bản,
nhất là từ khi Đặng Tiểu Bình viếng thăm Hoa Kỳ năm 1979, rồi dạy cho
Việt Nam một bài học, thách thức Liên Sô lúc bấy giờ, mặc dầu Việt Nam
và Liên Sô mới ký một hiệp ước hỗ tương quân sự vào năm 1978.
Về canh nông và kinh tế: Chấp nhận cho nông dân mướn đất, tự trồng trọt,
một phần hoa lợi đóng cho chính phủ, phần còn lại để tiêu dùng và có
thể bán trên thị trường. Quyết định đã được lấy từ thời thất bại của
chính sách "Đại nhảy vọt" của Mao, nhưng nay được giữ lại. Về kinh tế,
chấp nhận cho mở những hãng xưởng tư, mở cửa buôn bán với nước ngoài,
thực hiện cuộc thử nghiệm tại một số địa phương, như vùng Thẩm Quyến ở
Quảng Đông, mở cửa cho ngoại quốc đến đầu tư, khuyến khích mở những hãng
xưởng có sự hợp tác của ngoại quốc, qua hợp đồng "Joint Venture", một
phần vốn của ngoại quốc, một phần vốn của tư nhân hay vốn của nhà nước.
Rút tỉa kinh nghiệm thành công của kinh tế Nhật, Nam Hàn, Đài Loan,
Singapour, nay Trung cộng của họ Đặng đã hướng nền kinh tế về sản xuất
để xuất cảng.
Nhưng một trong những quyết định quan trọng của Bát đại gia, đó là trao
toàn tài sản quốc gia, tất cả những hầm mỏ, những hãng quốc doanh, những
ngân hàng vào tay con cháu của tám đại gia này, nằm trong 3 tập đoàn
chính (Holding), tập đoàn xây cất nhà cửa, do một người con gái và con
rể Đặng Tiểu Bình nắm, tập đoàn lo về thực phẩm cho quân đội lúc ban
đầu, sau lan sang ngành mở tiệm ăn, xây khách sạn, khu du lịch, khu giải
trí, do Vương Quân, con của tướng Vương Chấn cầm đầu, tập đoàn khai
thác hầm mỏ, sau lan sang xây cất cầu cống đường xá, đầu tư khai thác
dầu mỏ ở nước ngoài, do một người con rể khác của họ Đặng cầm đầu.
Ngoài ra còn có quyết định thành lập một ngân hàng mang tên là Ngân hàng
Trung ương Xây dựng Trung quốc, do Trần Nguyên, con của Trần Vân cầm
đầu cùng nhiều phó tổng giám đốc là con cháu của Bát đại gia.
Theo tờ báo Bloomberg: "26 hậu duệ (tức con cháu của Bát đại gia) điều
hành hay nắm giữ các chức vụ hàng đầu trong các công ty nhà nước thống
trị nền kinh tế. Chỉ riêng 3 người con - con trai tướng Vương Chấn,
Vương Quân, con rể Đặng Tiểu Bình, Hà Bính, và Trần Nguyên, con trai
Trần Vân, đứng đầu hoặc vẫn điều hành các công ty thuộc sở hữu nhà nước
với tài sản cộng chung là 1,6 ngàn tỷ $ năm 2011. Con số này tương đương
với 1/5 tổng sản lượng lúc bấy giờ." Trung cộng lúc này có vào khoảng
15000 doanh nghiệp nhà nước, được chuyển vào tay con cháu Bát đại gia,
nhưng đằng sau có vào khoảng 3000 ngân hàng, người nắm giữ vai trò chính
hệ thống ngân hàng, qua Ngân hàng Trung ương xây dựng nước Tàu, là Trần
Nguyên, với sự phụ tá của Hà Bính và Vương Quân, yểm
trợ những ngân hàng cũ, đồng thời lập ra những ngân hàng mới; cũng như
yểm trợ những hãng xưởng quốc doanh cũ và đồng thời lập ra những hãng
xưởng mới.
Kết quả là như thế nào: lúc đầu là 3000 ngân hàng, nay trở thành 30000
ngân hàng, vận dụng một số tiền khổng lồ là 30000 tỷ $, gấp 3 lần tổng
sản lượng hiện nay. Về những doanh nghiệp quốc doanh thì như thế nào? Từ
15000 bước sang mức độ là 150000, vận dụng một số tiền là 15000 tỷ $,
gấp 1,5 tổng sản lượng.
Họ đã đưa kinh tế nước Tàu từ thời chết đói Mao Trạch Đông sang một nền
kinh tế tăng trưởng vượt bực, với 2 con số trong một thời gian dài là
mấy chục năm.
Một vài con số để rõ:
Tăng trưởng năm 2002 là 9,1 % lên tới mức độ cao nhất là 14,2 % năm 2007, rồi xuống 7,5 % năm 2014, nay 2016 là 6,7 %.
Tất nhiên những con số này cũng chỉ có thể tin một cách tương đối, vì
chính Lý Khắc Cường, đương kim Thủ tướng bây giờ, lúc chưa lên Thủ
tướng, thường tuyên bố công khai với bạn bè và báo chí ngoại quốc, là
những con số do chính phủ đưa ra là không chính xác, có phần thổi phồng.
Tuy nhiên không ai chối cãi rằng có tăng trưởng. Trung cộng đã là nền
kinh tế đứng thứ nhì thế giới về tổng sản lượng, đứng đầu thế giới về
nhập cảng và xuất cảng.
Nền kinh tế chủ yếu là nhằm vào xuất cảng. Những hãng quốc doanh mới lập
ra được coi như những trại lính, ban quản trị được chỉ định từ trên
xuống, chỉ có nhiệm vụ là truyền lệnh, thợ thuyền là những người lính,
hay hơn thế nữa những người nộ lệ, bị bóc lột tối đa, vừa bởi những ông
tư bản đỏ, vừa bởi những ông tư bản trắng từ nước ngoài, chỉ biết vâng
lời, sản xuất và sản xuất, sản xuất để xuất cảng.
Cán cân thương mại luôn luôn thặng dư, trung bình hàng trăm tỷ $ một
năm. Một vài con số: Tính theo phần trăm của tổng sản lượng, thì cán cân
ngoại thương năm 2002, thặng dư 2,4%, năm 2003, là 2,6 %, cứ như thế
tăng, đến tột độ năm 2007 là 10,1 %, tất nhiên nay bắt đầu giảm như năm
2014 là 2 %. Như đầu năm 2016, xuất khẩu giảm 11,2% và nhập khẩu giảm 19
% so với cùng thời kỳ năm trước.
Chính sách mở cửa kinh tế của Đặng Tiểu Bình và Bát đại gia, có những
thành quả tốt đẹp như trên; nhưng ngược lại cũng có những tiêu cực và
mặt trái xấu xa của nó, không chỉ riêng trên phương diện kinh tế, mà cả
chính trị, xã hội, môi sinh, môi trường và dân số.
Chỉ riêng lãnh vực dân số, chính sách một con làm cho dân số trở nên già
sớm, giới trẻ bị hư hỏng, vì là một con, nhất là con trai, nên được
nuông chiều.
Về chính trị xã hội, quyết định trao toàn quyền chính trị cho Bát đại
gia, và toàn tài sản kinh kế quốc gia cho con cháu họ, đã là một quyết
định đi phản lại lòng dân và phản lại chiều hướng tiến bộ của nhân loại.
Đó chỉ là một quyết định kéo dài chế độ độc tài cộng sản, mặt trái của
chế độ quân chủ, nay cộng thêm chế độ gia tộc. Thực ra nếu chúng ta theo
dõi kỹ lịch sử Tàu, thì chế độ Bát đại gia này cũng chẳng có gì mới lạ,
nó đã có từ lâu thời Xuân Thu - Chiến quốc (770-256 trước Công Nguyên),
và gần hơn nữa là chế độ Bát Kỳ (Tám cái cờ), trao đất đai, lãnh thổ,
quyền hành quân sự, chính trị cho con cháu nhà vua, được tiêu biểu bởi
một màu cờ, từ Hoàng kỳ, đến Hồng Kỳ, Bạch kỳ v.v... Nói một cách khác
đi là con cháu vua, mỗi người
nắm một vùng chiến thuật, có tất cả quyền hành, đất đai, quân số v.v...
Nhưng ai cũng biết, chế độ nhà Thanh rồi cũng sụp đổ vì đi ngược lòng
dân và đi trái trào lưu tiến bộ của nhân loại.
Người ta có thể nói chuyện dân bất mãn, giới sĩ phu trí thức, nhất là
giới trẻ, sinh viên học sinh, trong đó có cả những người cao cấp cộng
sản, như cựu Tổng bí thư Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương, đã nổi lên trong
biến cố Thiên An Môn 1989, là một thí dụ điển hình.
Từ năm 1989 tới nay, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường
cũng không có gì tiến triển tốt đẹp, nếu không nói là càng tồi tệ hơn.
Bằng chứng là những cuộc nổi dậy, biểu tình chống chính phủ, hàng năm có
đến cả mấy trăm ngàn vụ. Riêng vấn đề ô nhiễm, thì chỉ cần quan sát
ngay ở thủ đô, thành phố Bắc kinh, mỗi buổi sáng là sương mù ô nhiễm dày
đặc, ai ra ngoài cũng phải mang khẩu trang.
Chính vì vậy mà ông La Vũ, có thể nói là bạn nối khố của Tập Cận Bình,
vì cha của 2 người đều là đại công thần của Mao, đều là Phó Thủ tướng,
một người đặc trách về công an, nội vụ, người khác đặc trách về thông
tin, ý thức hệ, tuyên truyền, thêm và đó, hai bà mẹ lại chơi thân với
nhau, khi lên voi cũng như lúc hoạn nạn, trong một bức thư gần đây, gửi
họ Tập, đã viết:
"Trung quốc đang ngập lụt trong khủng hoảng: khủng hoảng về đức tin, đạo
đức, môi trường, kinh tế, tài chánh, giáo dục, y tế, và tài nguyên
thiên nhiên. Tại sao? Gốc rễ của vấn đề là chế độ độc tài một đảng của
đảng CS Trung quốc."
Ông kết luận:
"Cha của chúng ta là những nhà cách mạng nòng cốt của Mao Trạch Đông.
Nhưng sau cuộc cách mạng, thay vì có được một nhà nước dân chủ, chúng ta
trở thành một nhà nước độc tài. Đó là sự khác biệt giữa Mao Trạch Đông
và Georges Washington.”
Về kinh tế, người ta có thể nói kinh tế tư bản nhà nước, với 150000
doanh nghiệp nhà nước, những trại lính, hay đúng hơn là những trại nô
lệ, đã đạt tới cực điểm vào những năm 2000. Bảo rằng giới lãnh đạo Trung
cộng, không ý thức được điều này thì cũng không đúng, vì vào năm 2002,
trong Đại hội Đảng lần thứ 16, đưa Hồ Cẩm Đào lên chức Chủ tịch đảng và
Chủ tịch nhà nước, với một chương trình "Bốn Hài hòa". Đại để như sau:
- Hài hòa xã hội: làm thế nào để giảm bớt sự chênh lệch giầu nghèo trong xã hội.
- Hài hòa kinh tế: không thể quá chú trọng về kinh tế hướng ngoại, chỉ
nhằm vào xuất cảng mà quên đi kinh tế quốc nội, phải làm sao để tăng
phần tiêu thụ quốc nội.
- Hài hòa giữa nông thôn và thành thị: không thể chỉ chú trọng đến thành thị, nhất là những vùng ven biển, mà bỏ mặc nông thôn.
- Hài hòa với thiên nhiên: tức vấn đề môi sinh, môi trường, không thể để ô nhiễm không khí,
Chu Chỉ Nam
No comments:
Post a Comment