Quốc
Hội khóa 113 H.R. 1897
Phiên
họp 1 Để thúc đẩy tự do và dân chủ tại Việt
Nam
Nghị Quyết (an Act)
Sẽ
được Thượng viện và Hạ viện Hoa kỳ ban hành trong các trong các phiên họp Quốc
Hội kế tiếp.
PHẦN 1. TỰA NGẮN;
MỤC LỤC (SHORT TITLE; TABLE OF CONTENTS)
(a)
TỰA NGẮN.-- Đạo luật nầy có thể gọi là “Luật Nhân Quyền Việt Nam năm 2013.”
(“Vietnam Human Rights Act of
2013”)
(b)
MỤC LỤC.—Mục lục của Nghị quyết nầy như dưới đây”
Phần 1. Tựa ngắn và mục lục (Short
title and table of contents)
Phần 2. Kết quả và mục đích
(Findings and purpose)
Phần 3. Cấm gia tăng yễm trợ “không-nhân đạo” cho
chính quyền Việt Nam
(Prohibition
on increased nonhumanitarian assistance to the Government of Vietnam)
Phần 4. Chính sách ngoại giao vì lợi
ích chung của Hoa kỳ (United States public diplomacy)
Phần 5. Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp
quốc (United Nations Human Rights Council)
Phần 6. Báo cáo hàng năm (Annual
Report)
PHẦN 2. KẾT QUẢ
VÀ MỤC ĐÍCH
(a) KẾT QUẢ.-- Quốc hội nhận thấy:
(1) Các mối quan hệ giữa Hoa kỳ và Cộng
hòa Xã hội Việt nam đã phát triển khả quan kể từ khi chấm dứt lệnh cấm vận vào năm
1994, từ đó quan hệ thương mại hàng năm giữa hai nước lên gần đến
$25,000,000,000 trong năm 2012.
(2) Chính quyền Việt nam trong quá
trình mở rộng nền kinh tế và thương mại lại không diễn ra trong tự do chính trị
và cũng không cải thiện các quyền công dân căn bản, trong đó có quyền tự do
ngôn luận, tôn giáo, lập hội và hội họp.
(3) Quốc hội Hoa kỳ đã thỏa thuận để
cho Việt nam trở thành hội viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO,
World Trade Organization) vào năm 2006, với sự đảm bảo rằng Chính phủ Việt nam
đang liên tục cải thiện chính sách nhân quyền và sẽ liên tục làm như vậy.
(4) Việt nam vẫn còn là một quốc gia
độc đảng , cai trị và kiểm soát bởi đảng Công sản Việt nam (CPV, Communist
Party of Vietnam), liên tục phủ nhận quyền thay đổi chính quyền của người dân
(the right of citizens to change their government).
(5) Mặc dù trong những năm gần đây,
Quốc hội Việt nam đã đóng một vai trò ngày càng chủ động như là một diễn đàn biểu
hiện các mối quan tâm của địa phương, tham nhũng và không hiệu quả, tuy nhiên Quốc
hội vẫn còn chịu sự chỉ đạo của Đảng, và Đảng một mực kiểm soát việc tuyển chọn
các ứng cử viên trong các cuộc bầu cử quốc gia hay địa phương.
(6) Chính quyền Việt nam ngăn cấm sự
thách thức công khai của quần chúng về tính hợp pháp của nhà nước độc đảng, đã
hạn chế quyền tự do tư tưởng, báo chí, hiệp hội, và giới hạn chặt chẽ các các phương
tiện truyền thông điện tử (Internet and telecommunications).
(7) Từ ngày gia nhập WTO, January
11, 2007, chính quyền Việt nam tự ý bắt giam nhiều nhân vật vận động cho hòa
bình, tôn giáo, dân chủ, và nhân quyền, trong đó có Linh mục Nguyễn Văn Lý, các
Luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đại, Lê Thị Công Nhân, Cù Huy Hà Vũ, và Lê Công Định,
cùng các “bloggers” Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, và Lê Văn Sơn.
(8) Chính phủ Việt nam tiếp tục giam
giữ, bỏ tù, quản thúc tại gia, kết án hoặc hạn chế quyền người dân phát biểu
hay bày tỏ quan điểm chính trị hay tôn giáo của mình một cách ôn hòa.
(9) Chính quyền Việt nam tiếp tục
giam giữ các nhà lãnh đạo công nhân và hạn chế quyền tổ chức các hiệp hội độc lập.
(10) Chính quyền Việt nam tiếp tục hạn
chế quyền tự do tôn giáo, giới hạn các hoạt động độc lập của tôn giáo, và bách
hại các giáo dân mà chính quyền cho rằng có thái độ chống chính quyền.
(11) Mặc dù báo cáo có tiến bộ về
vấn đề mở cửa nhà thờ và liệt kê các địa điểm hành lễ, nhưng chính quyền Việt
nam đã bõ đi nhiều hoạt động tích cực kể từ tháng 11 năm 2006, khi bộ Ngoại Giao
xóa tên Việt nam trong danh sách các “nước quan tâm đặc biệt” (CPC, Country of
Particular Concern).
(12) Thiểu số giáo dân Tin Lành, đặc
biệt những người Thượng ở miền Trung và Tây-bắc Cao nguyên đã khổ sở vô cùng vì
bạo quyền Việt nam, ví như bị ép buộc phải bỏ đạo (renunciation of faith), bị bắt
giữ và sách nhiễu, cắt giãm chương trình trợ cấp xã hội, tịch thu và phá hủy
tài sản, bị đánh đập tàn nhẫn, và có khi phải mất mạng.
(13) Chính quyền áp dụng các biện
pháp bạo hành chống lại những buổi lễ đêm, cầu nguyện thanh tịnh, và những cuộc
diển hành ôn hòa của người Công giáo, những mong chính quyền trả lại tài sản
giáo hội đã bị tịch thu. Những người diễn hành bị đàn áp, đánh đập, và giam cầm,
còn tài sản nhà thờ thời bị đập phá. Người Công giáo còn phải tiếp tục đương đầu
với sự cấm đoán lựa chọn các hàng giáo sĩ, thành lập chủng viện, và sự tuyển chọn
các chủng sinh, và trường hợp cá nhân đi lại, và sự đăng ký của nhà thờ.
(14) Tháng 5 năm 2010, giáo dân nhà
thờ Công giáo ở làng Cồn Dầu, Đà nẳng, phải đối đầu với bạo lực càng lúc càng
gia tăng trong suốt buổi lễ an táng, khi cảnh sát cố sức ngăn cấm chôn cất người
có đạo trong nghĩa trang của làng; có hơn 100 dân làng bị thương, 62 người bị bắt,
5 người bị đả thương, và ít nhất có 3 người thiệt mạng.
(15) Giáo hội Thống nhất Phật giáo
Việt nam (UBCV, United Buddhist Church of Vietnam) bị áp bức khi chính quyền Việt
nam tiếp tục giới hạn sự quan hệ và sự đi lại của các chức sắc cao cấp của Giáo
hội chỉ vì Giáo hội từ chối, không gia nhập vào các tổ chức Phật giáo do chính
quyền tài trợ. Chính quyền giới hạn quyền tự do ngôn luận và hội họp, đồng thời
chính quyền tiếp tục đàn áp và hăm dọa các chư tăng ni, và các cư sĩ lãnh đạo
trẻ.
(16) Chính quyền Việt nam tiếp tục
đàn áp sinh hoạt của các tín đồ theo các tôn giáo khác, bao gồm Cao Đài, Phật
giáo Hòa Hảo, như giam giử, cầm tù, và sự quản chế khắc nghiệt, bởi lẽ các tôn
giáo nầy không được chính thức nhìn nhận hay vì lẽ các tôn giáo nầy không chấp
nhận gia nhập vào các nhóm do nhà nước thành lập và kiểm soát.
(17) Nhiều người Thượng và người khác
vẫn còn giam giử dài hạn bởi đã tham gia trong các cuộc biểu tình ôn hòa trong
những năm 2001, 2002, 2004, 2008. Riêng người Thượng phải tiếp tục đối đầu với
những hăm dọa, giam giử, tra tấn, bó buộc chối bỏ đạo, phá hủy tài sản, giới hạn
sự đi lại, và kể cả sự chết chóc gián tiếp bởi bàn tay của những viên chức
chính quyền.
(18) Thiểu số người Hmong ở miền Bắc
Việt nam, Tây-Bắc Cao Nguyên, và Trung phần Cao nguyên Việt nam cũng bị hạn chế
tự do, bị tịch thu tài sản, bóc lột, và khủng bố bởi Chính quyền Việt nam.
(19) Chính quyền Việt nam kềm hãm
người Khmer Krom, hạn chế quyền tự do ngôn luận, hội họp, và lập hội, đã tịch
thu hầu hết các đền thờ của Phật giáo Theravada, khống chế tổ chức Phật giáo
Khmer Kaon, và ngăn cấm phần lớn các cuộc biểu tình dù là ôn hòa.
(20) Chính quyền Việt nam kiểm soát
hầu hết báo in và báo điện tử, bao gồm cả việc xử dụng “Internet,” và thường
xuyên gây nhiểu loạn các tín hiệu của một số đài phát thanh ngoại quốc, bao gồm
Đài Á Châu Tự Do (Free Asia), và đã bắt nhốt những cá nhân đã đăng tải, gửi,
hay phổ biến các tài liệu liên hệ đến chế độ dân chủ.
(21) Những người bị bắt ở Việt nam
vì những quan hệ và hoạt động chính trị hay tôn giáo thường bị kết án không
thông qua quá trình pháp lý, bởi lẽ, họ không được liên lạc với luật sư do họ lựa
chọn, họ bị xử kín, và bị tra tấn đến nổi phải nhận tội mà họ không hề vi phạm
hay phải man khai tội cho những người lãnh đạo của mình.
(22) Việt nam tiếp tục là nước buôn
bán tình dục và bóc lột lao động khổ sai của phụ nữ và thiếu nữ, đồng thời, một
số lớn thanh niên nam nữ bị lừa gạt, ký kết hợp đồng lao động quốc tế, để sau
cùng xa quê hương, gặp phải cảnh khốn
cùng, sống đời nô lệ hay phải cảnh lao động cưỡng bức. Việt nam còn là nước tiếp nhận tệ buôn bán trẻ
em, và liên tục âm mưu buôn bán người bên trong nước.
(23) Có nhiều báo cáo cho biết rằng
nhiều quan chức và nhân viên chính quyền tham gia, tạo điều kiện, dung túng,
hay đồng lõa trong những vụ bất nhân buôn bán người.
(24) Chương trình định cư người tỵ nạn
của Hoa kỳ, bao hàm Chương trình Tái định cư Nhân đạo (HR, Humanitarian Resettlement),
Chương trình Ra đi có Trật tự (ODP, Orderly Departure Program), Chương trình
Tái lập Cơ hội cho người Việt nam Hồi cư (ROVR, Resettlement Opportunity for
Vietnamese Returnees), nói chung cho những thuyền nhân từ các trại ở
Đông-Nam-Á, đạo luật Hồi hương Mỹ lai (Amerasian Homecoming Act) năm 1988, và
trường hợp tái định cư “Ưu tiên Một Người tỵ nạn” (Priority One Refugee
resettlement), đã giúp người Việt nam Quốc gia đã từng bị bạc đãi chỉ vì hợp
tác với Hoa kỳ hay, trong nhiều trường hợp, chỉ vì sự hợp tác của người chồng
hay vợ, của cha mẹ, hay của thân nhân, hoặc như những người Việt nam Quốc gia
khác bị bạc đãi chỉ vì chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, quan niệm chính trị, hay
là hội viên của những đoàn thể xã hội đặc biệt.
(25) Trong khi các chương trình trước
thực hiện rất tốt các mục tiêu của chúng, thời một có số đáng kể người Việt nam
tỵ nạn tuy có đủ điều kiện ra đi lại bị từ chối hay bị loại bỏ một cách bất
công, kể cả Mỹ lai. Một số trường hợp vì hận thù hay vì tệ tham nhũng của các
viên chức Việt nam. Một số khác, vì nhân viên Hoa kỳ giới hạn quá đáng các tiêu
chuẩn phỏng vấn. Ngoài ra, chính quyền Việt nam còn từ chối cấp phát hộ chiếu
cho những người đã được Hoa kỳ nhìn nhận
là đã có đủ điểu kiện nhập quốc Hoa kỳ.
(26) Chính quyền Việt nam cho biết
hiện đang giam giữ mười ngàn tù nhân, trong số đó có một số trẻ em trên dưới 12
tuổi bị bắt giam và cải huấn trong các trại lao động khổ sai theo chương trình
bài trừ ma túy của chính quyền.
(27) Năm 2012, có trên 150,000 người
đã ký kiến nghị trực tuyến (online petition) kêu gọi Chính quyền Hoa kỳ không
nên mở rộng giao thương với cộng sản Việt nam bởi Chính quyền Việt nam vi phạm
nhân quyền.
(28) Quốc hội đã thông qua nhiều nghị
quyết lên án sự chà đạp nhân quyền ở Việt nam, chứng tỏ rằng mặc dù có sự mở rộng
các mối quan hệ với chính quyền Việt nam,
Việt nam vẫn không quan tâm, cứ tiếp tục chà đạp các quyền tự do căn bản
người trong nước.
(b) MỤC ĐÍCH.-- Mục đích của luật nầy là nhằm
thúc đẩy sự phát triển tự do và dân chủ ở Việt nam.
PHẦN 3. CẤM GIA TĂNG YỄM TRỢ KHÔNG-NHÂN-ĐẠO CHO CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM
(a) YỄM TRỢ
(1) TỔNG
QUÁT.- Ngoại trừ các qui định trong tiểu
mục (b), Chính phủ Liên bang Hoa kỳ có thể không giúp đỡ “không-nhân-đạo” cho
chính quyền Việt nam trong bất kỳ trong năm tài chánh (fiscal year) nào vượt
quá số tiền đã giúp đỡ trong năm tài chánh 2012, trừ khi...
(A) đối với giới hạn cho năm tài chánh 2014, Tổng thống đã
quyết định và xác nhận trước Quốc hội, chậm
nhất là 30 ngày sau khi ban hành Đạo luật này, các yêu cầu của tiểu đoạn (A) cho đến (G) của khoản (2) phải
được đáp ứng trong thời gian 12-tháng sau ngày xác nhận, và
(B) đối với giới hạn cho năm tài chánh
tiếp theo, Tổng thống quyết định và xác
nhân trước Quốc hội, theo báo cáo hằng
năm gần nhất, đệ trình theo mục 6, rằng các yêu cầu của tiểu đoạn (A) cho đến
(G) của khoản (2) đã được đáp ứng trong thời gian 12-tháng của bản báo cáo.
(2)
YÊU CẦU.- Các yêu cầu của chương nầy như sau:
(A) Chính quyền Việt nam phải có tiến bộ
đáng kể trong việc từ từ trả lại tự do cho các nhân vật hoạt động chính trị và
tôn giáo, bị nhốt tù, quản thúc tại gia, và các hình thức giam giữ khác.
(B) Chính quyền Việt nam phải có thái độ tiến
bộ về việc...
(i)
tôn trọng quyền tự do tôn giáo, trong đó có quyền tham gia hoạt động và tổ chức
tôn giáo mà không bị chính quyền phá rối, sách nhiễu, hay
xâm nhập, cho tất cả các công đoàn tôn giáo Việt nam, và
(ii)
trả lại bất động sản và tài sản của nhà thờ, và công đoàn tôn giáo đã bị tich
thu trước đây.
(C) Chính quyền Việt nam phải có tiến bộ đáng
kể về việc tôn trọng quyền tự do ngôn luận, hội họp, và lập hội, kể cả việc trả
lại tự do cho các nhà báo độc lập, các “bloggers”, và các nhà hoạt động dân chủ
và lao động.
(D) Chính quyền Việt nam phải có tiến bộ đáng
kể về việc bãi bỏ hay sửa đổi các đạo luật kết án các nhân vật chống đối ôn
hào, cơ quan truyền thông độc lập, hoạt động tôn giáo, và các cuộc diển hành và
biểu tình bất bạo động, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và các hiệp ước
trong đó Việt nam là hội viên.
(E) Chính phủ Việt nam phải có tiến bộ đáng kể
về mặt cho phép người Việt nam quốc gia tự do và công khai liên lạc với những
chương tình tỵ nạn của Hoa kỳ.
(F) Chính quyền Việt nam phải có tiến bộ đáng
kể về mặt tôn trọng nhân quyền của người thiểu số.
(G) Không một viên chức nào của chính quyền
Việt nam, không một cơ quan hay tổ chức nào của chính quyền Việt nam, toàn phần
hay một phần, được âm mưu buôn người. Chính quyền Việt nam phải áp dụng mọi biện
pháp thích ứng để chấm dứt tệ buôn người, bắt giữ các viên chức, cơ quan, hay tổ
chức, và trừng phạt họ tương ứng với tội ác đã phạm.
(b) NGOẠI LỆ.—
(1) TIẾP TỤC HỖ TRỢ THEO QUYỀN LỢI CỦA QUỐC
GIA (Continuation of assistance in the national interest).- Mặc dù Chính quyền
Việt nam thất bại trong việc đáp ứng các yêu cầu của tiểu mục (a)
(2) THỰC HIỆN QUYỀN TỪ CHỐI (Exercise of
waiver authority). Tổng thống có thẩm quyền từ chối theo đoạn (1) đối với—
(A)
tất cả yễm trợ không-nhân-đạo cho Việt nam; hay là
(B)
một hay nhiều chương trình, dự án, hoặc những hoạt động của sự yễm trợ đó.
(c) ĐỊNH NGHĨA.—Trong phần nầy:
(1) Hỗ trợ không-nhân đạo (nonhumanitarian
assistance).—Thuật ngữ “hố trợ không nhân đạo” có nghĩa—
(A) bất
kỳ hỗ trợ theo Đạo luật Ngoại viện (Foreign Assistance Act) năm 1961 (bao gồm
các chưong trình theo tiêu đề IV của chương 2 của phần 1 của Đạo luật trên,
liên quan đến Tổ hợp Tư Đầu tư Nước
ngoài (Overseas Private Investment Corporation), khác với—
(i)
cứu trợ thiên tai, bao gồm bất kỳ cứu trợ
theo chương 9 của phần 1 của Đạo luật;
(ii)
cứu trợ liên quan đến việc cung cấp thực phẩm ( bao gồm cả tiền tệ lưu hành),
hoặc thuốc men;
(iii) cứu trợ các môi trường ô nhiểm chất độc
“dioxin” tác hại sức khỏe con người;
(iv)
trợ giúp chống nạn buôn người;
(v) trợ giúp chống bịnh truyền nhiễm;
(vi)
trợ giúp ngưởi tỵ nạn; và
(vii)
trợ giúp chống bịnh HIV/AIDS, bao gồm cả sự trợ cứu theo phần 104A của Đạo luật
trên; và
(B)
tài trợ bán kỳ bất kể hạn kỳ, theo Đạo luật Kiểm soát Xuất cảng Vũ Khí (Arms
Export Control Act).
(2) HÌNH THỨC NGHIÊM TRỌNG BUÔN NGƯỜI (Severe Form
of Trafficking in Persons).—Thuật ngữ “buôn người” có nghĩa là bất kỳ hoạt động
nào đã được mô tả trong phần 103(8) của Đạo luật Bảo vệ Nạn nhân Buôn người năm
2000 (Trafficking Victims Protection Act of 2000 [Public Law 106-386 (114 Stat.
1470); 22 U.S.C 7102(8)]).
(d) THỜI HẠN CÓ HIỆU LỰC (Effective
Date).-- Phần nầy có hiệu lực kể từ ngày
ban hành Đạo luật nầy và sẽ được áp dụng cho việc cung cấp các hỗ trợ
không-nhân-đạo cho Chính quyền Việt nam trong năm tài chánh 2014 và những năm kế
tiếp.
PHẦN 4. HOA KỲ
VÀ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO (United States Public Diplomacy)
(a) ĐÀI PHÁT THANH Á CHÂU TỰ DO.—Theo Quốc hội
là Hoa kỳ cần phải có biện pháp chấm dứt tình trạng gây nhiễu loạn đài Á Châu Tự
Do, bởi âm mưu phá rối của Chính quyền Việt nam, và rằng “Bộ Thống đốc Truyền
thanh (Broadcasting Board of Governors) không nên cắt giảm nhân viên, tài trợ,
hay giờ phát thanh tiếng Việt của đài VOA (Voice of America) và đài Á Châu Tự
Do, đồng thời không giảm bớt giờ của bất kỳ ngôn ngữ nào khác.
(b) CHƯƠNG TRÌNH TRAO ĐỔI VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC
HOA KỲ VỚI VIỆT NAM (United States Educational and Cultural Exchange Programs
with Vietnam).— Theo Quốc hội, bất kỳ chương trình trao đổi giáo dục và văn hóa
giữa Hoa kỳ và Việt nam nào cũng cần phải tích cực thúc đẩy sự tiến bộ về tự do
và dân chủ ở Việt nam, bằng cách tạo cơ hội cho người Việt nam quốc gia thuộc mọi
ngành nghề và quan điểm nhìn thấy tự do và dân chủ nẩy sinh trong hành động, và
cũng vậy, bằng cách đảm bảo rằng người Việt nam quốc gia đã hội nhập với các
giá trị đã được ghi vào các chương trình.
(c) HỘI ĐỒNG NHÂN QUYỀN LIÊN HIỆP QUỐC
(United Nations Human Rights Council).—Theo Quốc hội, Ngoại Trưởng cần phải cực
lực phản đối, và khuyến khích các hội viên Liên Hiệp Quốc cùng phản đối, trường
hợp Việt nam ứng cử vào Hội Đồng Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc vào nhiệm kỳ đầu
năm 2014.
PHẦN 5.—TỰ DO
TÔN GIÁO VÀ NẠN BUÔN NGƯỜI
(a) QUỐC GIA QUAN TÂM ĐẶC BIỆT (Country of
Particular Concer – CPC).—Theo Quốc hội, Việt nam là nước bị quan tâm đặc biệt
về phương diện tự do tôn giáo, căn cứ theo mục 402(b) của Đạo luật Tự do Tôn
giáo Quốc tế (International Religious Freedom Act) năm 1998 (22 U.S.C.6442(b).
(b) TIÊU CHUẨN TỐI THIỂU ĐỂ CHẤM DỨT NẠN
BUÔN NGƯỜI (Minimum Standards for the Elimination of Human Trafficking).—Theo
Quốc hội, Chính quyền Việt nam không thực hiện hoàn toàn các tiêu chuẩn tối thiểu
để xóa bỏ nạn buôn người, và không có những nỗ lực thích đáng để hoàn thành nhiệm
vụ, và việc nầy phải được phản ảnh trong
báo cáo hằng năm cho Quốc hội theo mục 110(b) của Đạo luật Bảo vệ Nạn nhân Buôn
người (Trafficking Victims Protection Act) năm 2000 (22 U.S.C. 7107(b).
PHẦN 6. BÁO CÁO
THƯỜNG NIÊN
(a) TỔNG QUÁT.—Không trể quá sáu tháng sau
ngày ban hành Đạo luật nầy và cứ mỗi 12 tháng sau đó, Bộ trưởng Ngoại giao sẽ
trình lên Quốc hội một báo cáo về những điều sau đây:
(1)
Việc xác định và chứng nhận của Tổng thống rằng các yêu cầu của tiểu đoạn (A) đến
(G) của phần 3(a)(2) đã được đáp ứng, nếu thích đáng.
(2) Nếu
Tổng thống đã từ bỏ việc áp dụng phần 3(a) theo mục 3(b) trong thời hạn báo cáo
–
(A)
quyền lợi quốc gia đối với việc từ chối như vậy dựa vào:
(B)
số lượng gia tăng yễm trợ không-nhân-đạo cho Chính quyền Việt nam; và
(C)
một mô tả về hình thức và mức yễm trợ so với sự mức cung cấp, căn cứ theo mục
3(b)(1).
(3)
Những cố gắng của Chính quyền Hoa kỳ nhằm giúp người Việt nam trong nước nghe
được đài phát thanh Á Châu Tự do.
(4)
Những cố gắng đảm bảo các chương trình ký chung với Việt nam nhằm thúc đẩy
chính sách nêu trong phần 102 của Đạo luật Nhân Quyền, Tỵ nạn, và Chính sách
Ngoại giao năm 1996 (the Human Rights, Refugee, and Other Foreign Policy
Provisions Act of 1996) đối với sự tham gia trong các chương trình trao đổi văm
hóa và giáo dục.
(5)
Danh sách các người được cho là bị cầm tù, giam giữ, hay bị quản thúc tại gia, tra
tấn hay bị khủng bố bởi Chính quyền Việt nam chỉ vì họ đấu tranh bảo vệ nhân
quyền đã được quốc tế công nhận. Trong khi thiết lập danh sách đó, Bộ trưởng sẽ
thật thận trọng quan tâm, kể cả quan tâm đến sự an toàn và an ninh, và quyền lợi
của những người có tên trong danh sách và cả gia đình của họ. Ngoài ra, Bộ trưởng
sẽ thiết lập thêm một danh sách những nhân sự giống như vậy, kể cả gia đình của
họ, bởi những người nầy có thể có đủ điều kiện được bảo vệ theo các chương
trình tỵ nạn của Hoa kỳ (United States refugee programs).
(6)
Mô tả sự phát triển luật pháp ở Việt nam, gồm—
(A) tiến
bộ hướng đến sự phát triển thể chế quản trị dân chủ (democratic gouvernance);
(B)
quá trình các quy chế, quy định, quy tắc, và quy luật pháp lý khác của Chính
quyền Việt nam đã phát triển và trở thành mệnh lệnh trong nước Việt nam.
(C)
phạm vi các đạo luật quy định, quy tắc, các quyết định hành chánh và pháp lý,
và luật tắc pháp lý khác của Chính quyền Việt nam được đăng tải và phổ biến tới quần chúng;
(D)
phạm vi các quyết định hành chánh và pháp lýđược hỗ trợ bởi lý lẽ dựa trên các
quy chế, quy định, quy tắc, và các quy luật pháp lý khác, đã được viết thành
văn của Chính quyền Việt nam;
(E)
phạm vi các cá nhân được đối xử bình đẳng theo luật pháp của Việt nam, không
phân biệt quốc tịch, chủng tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị, hoặc các hiệp hội
hiện tại hay trước đây;
(F)
phạm vi các quyết định hành chánh và pháp lý độc lập với áp lực chính trị hay sự
can thiệp của chính quyền, và đươc duyệt xét bởi các cơ quan có quyền phúc thẩm;
và
(G)
phạm vi pháp luật Việt nam được viết thành văn, và đươc thi hành phù hợp với
các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế, trong đó có các quyền đã được liệt kê trong
Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị (International Covenant on Civil
and Political Rights).
(b) LIÊN
LẠC VỚI CÁC TỔ CHỨC KHÁC (Contacts with other organizations). Trong khi chuẩn bị
báo cáo theo tiểu mục (a), Bộ trưởng, tùy theo thủ tục, sẽ tìm kiếm và duy trì
mối liên lạc với các tổ chức phi-chính-phủ (nongovernmental organizations) và
những nhân vật ủng hộ nhân quyền (bao gồm cả người Hoa kỳ gốc Việt nam và người
ủng hộ nhân quyền trong nước Việt nam), có tên trong các bảng báo cáo và được cập
nhật hóa bởi các tổ chức đánh giá báo cáo đó. Bộ trưởng cũng sẽ tìm cách tham
khảo ý kiến với Ủy ban Hoa kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế (United States
Commission on International Religious Freedom) để đáp ứng
với các phần của bảng báo cáo.
Thông qua Hạ viện
ngày 1 tháng 8 năm 2013
Chứng thực:
Thư ký
No comments:
Post a Comment