là người miền Nam và thuộc giới khoa bảng, có bằng cấp cao và hiện giảng
dạy tại các trường đại học lớn ở Việt Nam. Lúc chuyện trò, chẳng hiểu sao,
câu chuyện lại hướng về đại hội đảng lần thứ XII vừa mới kết thúc.
Ðiều khiến tôi ngạc nhiên vô cùng là không ai có vẻ hiểu biết gì về đại hội
ấy. Người ta biết rất lờ mờ về kết quả bầu cử; về chuyện ai đi ai ở lại; về
chuyện trong Bộ Chính Trị hay Ban Chấp Hành Trung Ương có bao nhiêu người;
và hoàn toàn không biết gì về những cuộc đấu đá giữa Nguyễn Phú Trọng và
Nguyễn Tấn Dũng. Với chút ngượng nghịu, họ thú nhận là họ không biết gì
nhiều. Rồi, cũng với chút ngượng nghịu, họ phân bua: Họ không để ý theo
dõi. Không đợi tôi hỏi, họ phân bua tiếp: Ông nào lên, ông nào xuống thì
Việt Nam cũng vẫn thế. Không có gì thay đổi cả. Biết vậy thì quan tâm để
làm gì? Thì giờ, người ta để dành cho việc kiếm sống. Rảnh, thì rủ bạn bè
ra quán, nhậu. Vậy thôi.
Chưa hết, người ta còn thanh minh thêm: Không phải chỉ có họ, mà ngay cả
các đảng viên ở Sài Gòn cũng vậy, cũng chả tha thiết gì đến chuyện chính
trị. Rồi họ đọc cho tôi nghe một câu ca dao mới nói về tính cách của người
“Nam kỳ”:
Nam kỳ ăn nhậu lai rai
Nghị quyết đọc hoài chẳng nhớ một câu.
Thú thực, tôi đã nghe những lời phân trần như vậy khá nhiều lần. Và lần nào
cũng ngạc nhiên. Bởi nó khác hẳn kinh nghiệm thường ngày của tôi tại Úc. Ở
Tây phương, người ta hay khuyên không nên nói đến chuyện chính trị vốn là
yếu tố rất dễ gây ra bất đồng. Nhưng đó là lời khuyên dành cho những người
lạ, ở chỗ sơ giao. Trên thực tế, trong khoa tôi dạy, giữa các đồng nghiệp,
chúng tôi vẫn rất hay nói đến chuyện chính trị. Người ta ít khi trình bày
lộ liễu chủ kiến của mình nhưng qua sự phân tích, hầu như ai cũng chứng tỏ
là họ rất hiểu biết về các biến động trong sinh hoạt chính trị tại Úc cũng
như ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt tại Mỹ. Sự hiểu biết ấy trở thành
một dấu chỉ của khái niệm trí thức.
Sẽ rất đơn giản nếu chúng ta quy việc thiếu quan tâm đến chính trị của
người Việt Nam như một biểu hiện của chứng vô cảm. Ðành là đúng. Sống trong
một quốc gia mà người ta không hề để ý đến các biến cố quan trọng có sức
ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước và tương lai của dân tộc, nếu không gọi là
vô cảm thì là cái gì?Nhưng vấn đề là: tại sao người ta vô cảm như vậy? Câu
trả lời đầu tiên là chính sách tuyên truyền cho tất cả hãy để cho “nhà nước
lo” ở Việt Nam. Hậu quả của chính sách tuyên truyền ấy là mọi người xem
chuyện đất nước thuộc trách nhiệm của ai đó, không dính líu gì đến mình.
Không quan tâm đến đất nước, người ta cũng chả thèm để ý đến các sinh hoạt
chính trị như đại hội đảng hay các cuộc hội nghị trung ương.
Tuy nhiên, bên cạnh sự vô cảm ấy, tôi nghĩ còn có một tâm lý khác: tuyệt
vọng.
Ðảng Cộng Sản, trong giai đoạn giành chính quyền, để thu phục nhân tâm, lúc
nào cũng vẽ ra bao nhiêu hy vọng cho dân chúng, từ hy vọng về độc lập cho
đất nước đến hy vọng về tự do và no ấm, hay xa và lớn hơn nữa, về một thiên
đường xã hội chủ nghĩa, nơi mọi người đều bình đẳng với nhau. Giành được
chính quyền rồi, trong những giai đoạn chiến tranh hay kinh tế khó khăn,
người ta lại vẽ nên những hy vọng khác, về thống nhất và về thịnh vượng.
Tuy nhiên, sau năm 1975, tất cả những gì người dân chứng kiến và kinh
nghiệm đều chỉ là sự áp bức và sự khốn cùng. Chỉ có giai đoạn gọi là đổi
mới, những tia hy vọng ấy mới sáng lên trong lòng dân chúng. Nhưng chỉ được
vài năm. Sau đó, tuy đời sống của người dân khá lên một chút, nhưng kinh tế
đất nước vẫn ì ạch trì trệ với số các đại công ty bị phá sản càng lúc càng
nhiều và đặc biệt, nợ công càng lúc càng chồng chất. Giáo dục và đạo đức
càng ngày càng suy đồi. Cán bộ thì tham nhũng. Ði đâu cũng gặp tham nhũng.
Những lời hứa hẹn diệt trừ tham nhũng cứ như những lời nói đùa. Những lời
hứa hẹn cải cách này nọ chỉ là những lời hứa hẹn hão. Dân chúng, từ lâu,
biết rõ điều đó, nên họ đúc kết thành ca dao: “Sửa sai thì lại sửa sai /
Sửa thì cứ sửa, sai thì cứ sai.” Sống trong hoàn cảnh như thế, kéo dài cả
hơn nửa thế kỷ, dần dần người ta đâm ra tuyệt vọng. Không ai còn tin là
đảng cầm quyền sẽ thực sự thay đổi hoặc có một chính sách nào thực sự có
hiệu quả để đất nước được phú cường và dân chủ cũng như nhân quyền được tôn
trọng. Bên cạnh sự tuyệt vọng ấy là cảm giác bất lực.
Ở đâu quyền lực chính trị cũng chỉ nằm trong tay một số người. Tuy nhiên, ở
các quốc gia dân chủ, những người bị trị ít nhất cũng có một số quyền lực
nhất định. Ở việc bầu cử. Ở việc lên tiếng phê phán hoặc thậm chí, xuống
đường phản đối một số chính sách họ cho là sai lầm. Giới lãnh đạo không thể
không quan tâm trước những sự phê phán và những sự phản đối ấy bởi, nếu
không, họ có thể bị thất cử ở kỳ bỏ phiếu kế tiếp. Ở Việt Nam, ngược lại.
Dân chúng hoàn toàn không có quyền bỏ phiếu cho những người lãnh đạo đất
nước: Ðó là công việc trong nội bộ đảng của họ. Dân chúng chỉ được quyền
bầu các đại biểu Quốc Hội, tuy nhiên, ở đây lại có hai điều đáng chú ý:
Một, tất cả những đại biểu ấy đều do đảng lựa chọn và đề cử; hai, thắng cử
rồi, các đại biểu ấy đều làm việc và bỏ phiếu theo chỉ thị của đảng chứ
không phải theo nguyện vọng của cử tri. Còn việc phê phán và phản đối của
dân chúng đối với các chính sách của đảng và của chính phủ thì hoàn toàn bị
cấm đoán. Dân chúng, do đó, dù biết các chính sách của nhà nước là sai lầm
và nguy hại, cũng không có cách gì ngăn chận được. Họ hoàn toàn bị bất lực.
Cảm giác tuyệt vọng và bất lực ấy được thấy rõ nhất trong quan hệ giữa Việt
Nam và Trung Quốc. Ai cũng biết Trung Quốc đã từng chiếm hải đảo Việt Nam
và đang âm mưu lấn chiếm cả vùng biển của Việt Nam. Và ai cũng biết, trước
các nguy cơ lấn chiếm ấy của Trung Quốc, phản ứng của chính quyền Việt Nam
rất yếu ớt và không có hiệu quả. Biết vậy, nhưng người ta không làm gì
được. Xuống đường biểu tình chống đối Trung Quốc thì bị đánh đập, bắt bớ,
tù đày. Sợ hãi và mệt mỏi, người ta đành buông xuôi.
Sự tuyệt vọng, bất lực và buông xuôi ấy rõ ràng là một tai họa cho đất
nước.Việt Nam không thể thay đổi, không thể mạnh hơn và không thể bảo vệ
được chủ quyền của mình trên biển đảo nếu dân chúng đều mặc kệ như thế.
Tuy nhiên, oái oăm là chính quyền lại muốn nuôi dưỡng cái tinh thần mặc kệ
ấy.
Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
Yểm Trợ Tự Do Ngôn Luận
Freespeech4vietNam
2127 Cliff Road, Suite H
Eagan, Minnesota.55122
612-986-4914 cell
612-567-1719 voice mail
408-634-9703 cell
web: www.freespeech4vietnam.org email: freespeech4vietnam@gmail.com
No comments:
Post a Comment