Wednesday, September 27, 2017

THƯ CUỐI GỞI CÔ CHÚ BÁC CỦA CON - NANCY NGUYỄN

THƯ CUỐI GỞI CÔ CHÚ BÁC CỦA CON
Con thiết tha mong các cô chú, xin hãy vì tôn trọng chính mình mà chấm dứt bán mũ cho nhau. Đã quá đủ rồi!
Rất nhiều lần con nghe bạn bè nói lại: "chú ấy bảo anh tránh em ra, vì em là Việt Tân", hay loại có tư tưởng thân cộng, hay thậm chí là cộng sản nằm vùng. Mỗi lần như thế, con chỉ mỉm cười rồi lại lặng lẽ đi. Chưa một lần nào, chưa có bất cứ ai, nghe bất cứ câu ta thán nào của Nancy Nguyen.
Con có lòng dạ nào trách các cô chú! Khi nỗi đau mọi người đã phải gánh chịu là quá sức tưởng tượng, quá sức chịu đựng của một đời người. Con có lòng dạ nào trách cô chú! Khi cứ bị quá khứ chực chờ ám ảnh, nhìn đâu cũng thấy thâm mưu, ngó ai cũng sợ là kẻ thù. Chính mắt con trông thấy, những con người bỏ rơi hiện tại của bản thân, gạt nước mắt lật đật đi rút tiền nhà bank, dăm chục đồng, dăm trăm đồng, thậm chí dăm ngàn đồng gởi về VN mỗi khi nghe tin dữ. Có những người không dám ăn, chẳng dám mặc, sống một đời chỉ để giúp VN thôi. Con có lòng dạ nào mà trách các cô chú cho được?
Nhưng khi cô chú quy chụp cho chúng con là người của đảng nọ phái kia, có tổ chức chính trị này khác chống lưng, lăng xê, bợ đỡ, cô chú có hiểu là cô chú đã hoặc vô tình, hoặc cố ý hất đổ công sức mồ côi của người trẻ chúng con không? Có hiểu là đã dẫm đạp lên tấm lòng mồ côi của chúng con không? Khi hùng hục quy chụp tụi con, cô chú có hiểu là đã hai tay dâng thành quả dẫu còn khiêm tốn của tụi con cho một tổ chức, đảng phái nào đó không? Chưa kể không tránh khỏi có sự ngờ vực mà xa tránh, trước là buồn lòng nhau, sau là hại cho việc chung. Có bao giờ cô chú nghĩ chúng con cũng biết đau không? Kẻ thù chẳng bao giờ làm mình đau bằng chính người mình được đâu!
Vừa chống CS, vừa chống nhau, đã quá đủ rồi cái thảm trạng hai ba chiến tuyến, bốn năm loại kẻ thù. Các cô chú muốn chống nhau, muốn chính trị trong lòng chính trị, con không dám, và cũng không có tư cách, để ý kiến, chỉ xin tha cho người trẻ bọn con, đừng bắt tụi con phải yêu ghét theo chỉ thị, đừng cố lôi kéo tụi con vào cuộc đa đoan ấy nữa!
Con xấu hổ! Khi phải chứng kiến những màn thanh trừng khốc liệt chỉ bởi vì cái ảnh chụp chung với một ai đó, một tổ chức nào đó. Thời buổi nào rồi mà chụp chung với nhau một tấm hình thì đã coi như ... "kết nạp!" Các cô chú có biết bế quan toả cảng, tuyệt giao với "kẻ thù" chính là cái đại họa diệt vong của dân Việt từ ngàn đời xưa? Khi Minh Trị Thiên Hoàng mở cửa cho Tây Phương vào thông thương, thông sứ, đã một bước mà đưa Nhật Bổn từ lạc hậu thành văn minh, đi trước cả Châu Á, thì vua Minh Mạng vì cái đạo nghĩa, cái truyền thống, cái căn cước dân tộc tính mà bế môn, cấm đạo, giết nhà tu, đưa đến hơn một trăm năm Pháp thuộc, rồi cuộc Việt Minh, mới có cái đám lưu vong chúng ta ngày hôm nay? Sự tuyệt giao không những là giấu sâu trong lòng nó tâm lý sợ hãi, thua kém, còn là con đường ngắn nhất đến tuyệt vong. Cuộc chiến Quốc - Cộng chẳng phải đã chứng minh rõ ràng?
Con biết thế nào cũng sẽ có người bảo nói thế chứng tỏ là quá non xanh, không hiểu đời hiểm ác, cứ thế đi, rồi thế nào cũng bị dắt mũi, bị lợi dụng, nối giáo cho giặc. Con xin lỗi phải nói lời rất đau lòng này: cái hoạ mất nước có phải là do chúng con? Việc mất nước của thế hệ đi trước dẫu là chẳng đặng đừng, là chuyện thời thế, cũng xin dám hỏi ai có thể khẳng định hai thời cộng hoà đã không làm gì sai? Tại sao thế hệ đi trước có thể vừa đặt lên vai chúng con, cho chính bản thân con, cái di sản đớn đau ấy, rồi lại vẫn thản nhiên buộc chúng con phải yêu nước thế này mới đúng, thế nọ là sai?
Đó là giả như chúng con sai. Nếu cứ bắt chúng con phải yêu nước theo đúng cách, chống Cộng theo đúng kiểu, chẳng khác nào cứ lập đi lập lại một phương thức mà hy vọng có một kết quả khác với 42 năm qua! Còn bảo không chống cộng thế này, thế khác, thì đích thị là VC, là nằm vùng, thì con nói thẳng, sự quy chụp này cho đến nay chỉ chứng tỏ được là vũ khí cực kỳ hữu hiệu để ta chống lẫn nhau, làm tổn thương đến nhau, làm nhụt chí của nhau, thậm chí giết hại đời nhau, chứ chưa có bằng chứng gì là nó có mảy may tác dụng với kẻ thù.
Từ nỗi ám ảnh kẻ thù trà trộn, gây nhiễu loạn, ta đã dành không biết bao nhiêu tâm sức để chĩa mũi gươm vào nhau, vô tình chính ta đã nối giáo cho giặc, làm chính xác cái điều họ muốn ta làm nhất. Cái tâm lý sợ trà trộn khởi đi từ một quá khứ đớn đau, và cái tiềm thức thua cuộc, như con chim đã một lần trúng tên chí tử, không thể bình thản mà nhìn cành cây nhọn. Con không dám phát xét đúng sai, lại càng không có tư cách xen vào, chỉ xin hãy buông tha cho người trẻ bọn con, đừng bắt tụi con phải học cái tâm lý nói thẳng là nhược tiểu ấy. Cho phép tụi con được lớn lên, được trưởng thành theo cái thời đại tụi con sống. Dẫu có sai đi chăng nữa, xin tôn trọng cái quyền được mắc sai lầm của chúng con.
Thay lời kết, con mong cô chú nhận rằng, "dân chủ" là một khái niệm chỉ vừa mới manh nha ở VN khi Bảo Đại thoái quyền vào giữa thế kỷ thứ XX đây thôi chứ chưa bao lâu. Trùng trùng điệp điệp những ngàn năm trước đó, nước ta vốn là một nước quân chủ chứ không phải dân chủ như sau này. Nên đối với công cuộc dân chủ, thế hệ đi trước, dù muốn dù không, vẫn chỉ là thế hệ "di dân tư tưởng", bắt đầu tiếp thu, cố gắng hiểu, cố gắng áp dụng, nhiều chỗ đúng, lắm chỗ sai, đôi ba chỗ mơ hồ, còn thế hệ chúng con là thế thệ "bẩm sinh tư tưởng", nên xin hãy bớt tính tự dĩ vị thị, và tin tưởng vào người trẻ có khả năng tự quyết cho thế hệ và thời đại của mình.
Đôi dòng nghịch nhĩ nhưng là lời trung ngôn, nghe được hay chối mắt thì lời cũng đã nói ra đến cạn rồi. Con viết để trải cái nỗi lòng của con, của chúng con, và của các em con.
Nếu cùng tâm nguyện, xin chia sẻ bức thư này để nó có thể đến được với những người cần đến.
Nguồn từ Nancy Nguyễn FB.

Ngoại Xì Tin Trang Lê Trạm Thu Phí BOT Cướp Dân

Tình Cờ Anh Chi Gặp Anh Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tại Boston Aug 27-17

Ngày 2 Tháng 9 Là Ngày Quốc Khánh Hay Quốc Tang - Do Anh Chi Thực Hiện

Khôi Phục Tâm Thức Việt 37 Anh Chi

Anh Chi Tâm Sự Cùng Quý Anh Chị Trên FB Hôm Nay Ngày 21 Tháng 09 Năm 2017.

LM Nguyễn Văn Khải chia sẽ tại Úc Châu Sept 9-2017

Hot ! Hot ! Hot ! Ngoại Xì Tin Nổi Giận Mục Ruồi Càng To - Trang Lê

Thầy Giáo Dạy Học Sinh Hát Bài "Trả Lại Cho Dân"

Friday, May 26, 2017

Chiến Sĩ Vô Danh (Nguyệt Ánh, Việt Dzũng)

Ngày Ba Mươi Tháng Tư 30/04 - Lâm Ngân Mai

Huỳnh Quốc Huy: Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lú đã mất hoàn toàn niềm ti...

Trung Cộng Dấu Chỉ Tăng Cưòng Vũ Khí

Nhiều dấu chỉ gần đây cho thấy TC đã qua giai đoạn quân sự hoá đang tiến
tới giai đoạn tăng cường và hiện đại hoá vũ khí với hoả tiễn, trọng pháo,
chiến đấu cơ, tàu lặn sẵn sàng lập vùng nhận dạng phòng không trên vùng
Biển Đông mà TC đã tuyên bố chủ quyền trên 95%

Một, TC tăng cường và hiện đại hoá vũ khí Biển Đông, có thể lập vùng cấm
bay trên lãnh hải này. Ngày 17-5-2017, VOA của Mỹ dẫn dụ tin Reuters dẫn
lại tin của tờ Thời báo Quốc phòng của Trung Quốc “đưa tin rằng bệ phóng
rocket Norinco CS/AR-1 55 mm có khả năng phát hiện, nhận diện và tấn công
người nhái của kẻ thù đã được lắp đặt trên Bãi đá Chữ thập ở Trường Sa. Bắc
Kinh kiểm soát bãi cạn này, nhưng Việt Nam, Philippines và Đài Loan cũng
tuyên bố chủ quyền. Tờ báo không nói là hệ thống phòng thủ trên được lắp
đặt khi nào, nhưng đưa tin rằng đó là một động thái đáp trả kể từ tháng Năm
năm 2014, khi người nhái Việt Nam giăng một số lượng lớn lưới đánh bắt cá ở
Hoàng Sa.

Hà Nội chưa có tuyên bố nào về thông tin trên, nhưng nhiều tờ báo trong
nước viết rằng Trung Quốc “ngang nhiên lắp đặt” hay “khai triển trái phép
bệ phóng rocket” ở “Trường Sa của Việt Nam”. Tin của truyền thông Trung
Quốc được đăng tải hai ngày sau chuyến thăm của Chủ tịch Trần Đại Quang.
Tin cho hay, ngày 11/5, Bắc Kinh đã bắn nhiều phát đại bác để chào đón
nguyên thủ Việt Nam.

Ngày 20-05-2017 Công ty ImageSat International (ISI) của Israel đưa tin và
hình ảnh mới nhất chụp từ vệ tinh cho thấy Trung Quốc đã cho khai triển hệ
thống hoả tiễn địa đối không HQ-9 trên đảo Hải Nam, gần với VNCS. Thông tin
này được trang ABS-CBN News đăng ngày 20/05/2017, và nhận định «dường như
Trung Quốc bắt đầu thực hiện vùng cấm bay trên Biển Đông». Bằng cớ được RFI
của Pháp minh xác, “hình ảnh được chụp ngày 08/05 cho thấy hai xe phóng hoả
tiễn HQ-9, một trung tâm radar và ba đường phóng hoả tiễn trên một ngọn đồi
được cảnh giới ở phía nam đảo Hải Nam. Trung tâm radar dường như được sử
dụng để khai triển hệ thống radar cảnh báo sớm và radar kiểm soát hỏa lực.
Những hình ảnh chụp ngày 15/03 trước đó không cho thấy bất kỳ xe phóng tên
lửa hay radar nào trên cùng vị trí.”

Theo báo cáo của ISI, TC sẽ kết hợp hệ thống hoả tiễn mới thành lập tại Hải
Nam với hệ thống hoả tiễn đã đặt ở hai đảo Phú Lâm trước đó, để lập thành
một khu vực cấm bay rộng lớn bao phủ trục đường hàng hải quan trọng trong
vùng trên Biển Đông. Và ISI nhận định trong tương lai trước khi tuyên bố
lập vùng cấm bay, TC sẽ đặt thêm nhiều giàn pháo hơn trên các đảo nhân tạo
mà Trung Quốc bồi đắp nhằm tăng cường đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông.

Bên cạnh báo cáo TC có thể lập vùng cấm bay, ISI trong một báo cáo khác,
các chuyên gia của ISI nhận thấy dường như Trung Quốc đã khai triển hệ
thống hoả tiễn đối hạm tại căn cứ hải quân Du Lâm (Yulin), cực nam đảo Hải
Nam. Những hoả tiễn này có tầm bắn khoảng 400 km.

Với việc thiết lập hệ thống hoả tiễn đối không và hoả tiễn đối hạm ở căn cứ
Du Lâm và quần đảo Hoàng Sa, ISI đánh giá «Trung Quốc đã bắt đầu thiết lập
một hành lang kiểm soát hàng hải và hàng không tại Biển Đông».

Ngày 23/02/2017, các chuyên gia thuộc tổ chức Sáng Kiến Minh Bạch Hóa Hàng
Hải Châu Á (AMTI), nhận định qua các không ảnh vệ tinh chụp được trong thời
gian gần đây thấy dường như các cấu trúc cho hoả tiễn được xây dựng trên Đá
Xu Bi (Subi Reef), Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) và Đá Vành Khăn (Mischef
Reef), thuộc quần đảo Trường Sa, ở Biển Đông. Thông tấn xã Pháp AFP dẫn dụ
tin này và nhận định Trung Quốc đã bắt đầu xây các cơ sở này trong giai
đoạn từ cuối tháng 09 đến đầu tháng 11/2016, và các hoạt động này «không
phải là nhằm phản ứng lại chu kỳ thay đổi chính trị tại Washington, mà đây
là một mô hình quân sự hóa» liên tục của Trung Quốc trong khu vực.

Hai, Tập Cận Bình qua Duterte hăm dọa các nước, rằng TQ sẽ gây chiến nếu áp
dụng phán quyết Biển Đông. TT Duterte là tân tổng thống Phi, một nước có
hiệp ước phòng thủ chung với Mỹ nhưng Ông trở cờ tuyên bố “ly khai” Mỹ vì
TT Obama chỉ trích hành động Ông Duterte cho cảnh sát tự tiện giết chóc
không qua Toà án, cả gần 5.000 người họ nghi sản xuất, buôn bán ma tuý, TC
o bế Ông và ký một số hợp đồng giúp cho kinh tế Phi.

Nhưng khi TT Duterte bàn việc cùng TQ khai thác dầu khí trên vùng biển của
Phi thì bị chính Chủ Tịch TC hăm doạ không tiếc lời. Ngày 19/05/2017 Tổng
thống Philippines Rodrigo Duterte cho biết chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
đã đe dọa sẽ xảy ra chiến tranh giữa hai nước, nếu Manila quyết định áp
dụng phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye và khởi động khoan
thăm dò dầu khí trên Biển Đông. Thế là TC coi Biển Đông là ao nhà, là sân
sau, là tài sản của tổ tiên TQ để lại rồi.

Còn CSVN là chế độ bị mất biển đảo nhiều nhứt vào tay TC thì TC coi như
CSVN như chư hầu. Tin VOA 21-5 theo theo Reuters, Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình sử dụng hội nghị thượng đỉnh với sự tham dự của nhiều nhà lãnh đạo
và các quan chức hàng đầu thế giới, trong đó có Chủ tịch Việt Nam Trần Đại
Quang, để củng cố vị trí lãnh đạo của Trung Quốc trên thế giới. Thế nhưng
theo tin RFA ngày 18- 5 cho biết “Tờ Defense times của Trung Quốc hôm 16
tháng 5 cho biết Trung Quốc đã khai triển giàn phóng tên lửa ra đá Chữ Thập
ngoài quần đảo Trường Sa đang tranh chấp với một số nước để đối phó với lực
lượng người nhái của Việt Nam. Thông tin này được đưa ra ngay sau khi Việt
Nam và Trung Quốc vừa có tuyên bố chung nhân chuyến thăm của Chủ tịch Trần
Đại Quang sang Bắc Kinh. Tuyên bố khẳng định hai nước đồng ý kiểm soát
những bất đồng và không có các hành động làm phức tạp thêm tình hình.”

Ba và sau cùng, mười mấy năm gần đây CSVN “đồng chí 16 chữ vàng và 4 cái
tốt” với TC, TC không cần bắn một tiếng súng, rút một cây gươm mà chiếm
lĩnh hầu hết hai đảo Hoàng sa và Trường sa của VN và 95% Biển Đông của VN,
biến thành khu quân sự. TC hoàn thành và hoàn tất xuất sắc công cuộc xâm
lăng biển đảo của VN, biến thành “một Vạn Lý Trường Thành bằng cát” theo mô
tả của Tư Lịnh Đệ Thất Hạm Đội của Mỹ, và thành những “hàng không mẫu hạm
không thể đánh chìm” theo nhận định của một số chiến lược gia Tây Phương.

Và trong tình thế bị CS bó tay, bịt miệng theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
người dân Việt nghĩ bao lâu mà chế độ CSVN này còn, thì không thể trông
mong gì lấy lại được phần bờ cõi của giang sơn gấm vóc VN bị TC chiếm cứ.
Nói tóm lại Biển Đông và Hoàng sa, Trường sa của VN coi như nằm trong tay
trong thời của Đảng Nhà Nước CSVN. Còn CSVN là VN còn mất biển đảo./.(VA)

FSP4VN

Trò Hèn CSVN Hăm Doạ Cắt Cổ Lâm Ngân Mai Sợ Quá !!! Lâm Ngân Mai

Wednesday, May 24, 2017

LÃNH ĐẠO TRẺ CỦA VIỆT NAM : LƯU THỊ QUY

Bùi Anh Trinh
 
*Giữa cái chốn cạnh tranh quyền lực gió tanh mưa máu, giữa cái “bức tường
lửa”đầy hắc ám, đột nhiên xuất hiện một nhà lãnh đạo 23 tuổi với cái máy vi
tính đã dẫn đầu 12.600 người đầy nhiệt huyết đứng ra tranh đấu cho lẻ phải,
cho sự thật.*

Lưu Thị Quyên không dựa hơi ai, không cần lừa bịp ai mà cũng tự nhiên trở
thành lãnh tụ nổi tiếng. Cô chỉ có duy nhất tấm lòng trong trong sáng và
một đầu óc sắc xảo. Cô đã đưa ra một đòi hỏi đơn giản là yêu cầu CSVN

*“công khai dự thảo ngân sách nhà nước”.*
Từ 1954 đến nay ngân sách của nhà nước CSVN được giấu như là bí mật của
quốc gia. Có thể nói ông Kim Jong Un giữ bí mật nguyên tử như thế nào thì
CSVN cũng giữ bí mật ngân sách nhà nước như thế ấy. Nhưng rồi đến năm 1993
thì bí mật này bắt buộc phải chia sẻ với ông chủ nợ Mỹ.
Năm 1993 Tống thống Clinton của Mỹ cho phép IMF và Wold Bank cho CSVN vay
để xóa đói giảm nghèo và vay để phát triển kinh tế. Dĩ nhiên con nợ phải
cho ông chủ nợ biết tình hình công nợ của họ như thế nào, kể cả dự án điều
hành ngân sách quốc gia. Từ đó CSVN cũng phải chia sẻ bí mật ngân sách với
các ông chủ nợ quốc tế, nghĩa là công khai công nợ với quốc tế. Đây là
việc bình thường đối với các quốc gia khác trên thế giới, chẳng những công
khai với giới tài chánh quốc tế, mà còn công khai với quốc dân của mình.

Nhưng đối với 4 nước Cọng sản còn lại trên thế giới thì không có chuyện
công khai công nợ của nhà nước bởi vì theo nguyên tắc Mác-Lênin thì việc
điều hành quốc gia là việc của “Bộ chính trị” mà người dân không được quyền
nhòm ngó tới. Vì vậy khi Lưu Thị Quyên đòi công khai hóa dự thảo ngân sách
nhà nước thì có nghĩa là đòi *phá bỏ Mác- Lênin*, tức là xóa bỏ hai chữ
“Cọng sản”.
Mặc dầu CSVN đã âm thầm phá rào Mác- Lênin từ năm 1986, trước khi chủ nghĩa
Mác- Lênin sụp đổ. Nhưng họ vẫn giữ kho bạc của quốc gia trong tay họ, và
họ không muốn cho dân biết họ đã tiêu xài tiền của quốc gia như thế nào.
Sở dĩ họ không muốn cho dân biết là vì họ đã tuồn tiền trong kho bạc về nhà
riêng của họ mà dân không thể nào hay biết.

Tuy nhiên CSVN đã mắc sai lầm trầm trọng khi họ lấy tiền vay của Mỹ để đầu
tư kiếm lời tại Venezuela, là quốc gia thù nghịch với Mỹ. Năm 2008 Tổng bí
thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết thăm viếng Venezuela. Năm
2009 trang mạng Tuyên Giáo Việt Nam khẳng định “Việt Nam và Venezuela cùng
tiến lên Xã hội chủ nghĩa”(sic).
Việc này không thể nào thoát khỏi con mắt của các thầy phù thủy Mỹ, cho nên
tháng 9 năm 2016 nhà báo Huy Đức tung ra tài liệu cho thấy CSVN đã “đầu tư”
2,1 tỉ USD cho Venezuela và rồi bị lừa mất trắng. Số tiền bị lừa này không
khi nào được đưa ra Quốc hội bởi vì đó là một vụ *mượn tiền nhà nước để
kinh doanh kiếm lời riêng*, mà trong đó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng
cũng có liên can. Chính ông đã ký giấy thông qua mà không trao đổi với
Quốc hội.
Người Mỹ thừa biết mánh lới kiếm tiền của lãnh đạo CSVN cho nên ngay lúc đó
họ đã gài cho nhà nước CSVN sa lầy với món tiền đầu tư tại Venezuela. Và
tiếp đó là nhà nước Venezuela sa lầy với thị trường dầu hỏa thế giới. Và
tới tháng 9 năm 2016 thì nội vụ mới được Huy Đức đưa ra ánh sáng. Lãnh đạo
CSVN quy trách nhiệm cho một mình ông Đinh La Thăng.

Theo dõi những vụ bê bối như thế này, cô nhỏ Lưu Thị Quyên thấy ngay sự vô
lý của việc tùy tiện tiêu tiền nhà nước để làm giàu riêng, cô nói :
*“Dự án của cháu bắt đầu bằng một cái hiểu lầm rất phổ biến ở giới trẻ, đó
là các bạn thường nghĩ rằng ngân sách nhà nước là từ nhà nước ban phát cho
mình, nghĩa là mình phải biết ơn nhà nước khi nhà nước cung cấp đường sá,
công viên, bệnh viện…”*
Đó không phải là hiểu lầm, mà là bị lừa phỉnh. Từ thời 1954 người ta đã
phải luôn mồm “cám ơn Bác”, “cám ơn Đảng”; từ thế hệ này qua thế hệ kia cứ
in rằng những gì mình nhận được là của Bác, của Đảng. Thét rồi dân chúng
không còn thói quen tư duy bởi vì Đảng quản lý luôn suy nghĩ của người dân.
Đảng cho nghe gì mới được nghe, Đảng bảo nghĩ gì mới được nghĩ.
Đời này tới đời kia, người dân chỉ biết biết cắm cúi sống và cắm cúi làm
việc. Nghĩa là đi từ kiếp con người sang kiếp của loài vật.
Cũng may là loài người chế ra cái máy vi tính, và rồi ông Trời sinh ra cô
Lưu Thị Quyên. Cô bé Quyên không phải “bị” nghe những gì Đảng nói. Cô bé
Quyên không “bị” suy nghĩ những gì Đảng bảo. Cô chỉ chú tâm nhìn vào
internet, và cô thấy ngay cái sự vô lý to đùng trước mắt :

*Việc gì mà phải cám ơn Đảng về việc Đảng lấy tiền của mình ban phát cho
mình ?*
Sau khi thấy ra sự vô lý khủng đó thì cô bé cảm thấy không nên tin tưởng
những người đang tiêu tiền của cô. Từ đó cô đặt vấn đề phải kiểm tra xem
người ta đã tiêu tiền của mình như thế nào? Trước tiên cô lấy chữ ký của
12.600 người để đòi Quốc hội CSVN phải công khai dự thảo ngân sách nhà nước
!!!
Tới đây thì rắc rối to cho lãnh đạo CSVN bởi vì người ta không thể bịt
miệng 12.600 người, cũng không thể thuê đầu gấu tấn công khủng bố chừng đó
người. Thôi thì đành cố đấm ăn xôi, giả ngây giả điếc, làm như không hay
không biết, chỉ mong sao cho cái con bé Quyên nó đừng có làm cái gì quá
đáng.
Thế nhưng ở bên Mỹ lão Trump lại không thông cảm cho. Nhân ngày phụ nữ
quốc tế bà vợ của lão bày ra chuyện vinh danh* Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là
“Phụ nữ can đảm” của thế giới*. Và rồi giờ đây lão Trump lại cho tìm trong
hơn 100 nước trên thế giới, lựa ra 10 nhân vật lãnh đạo trẻ xuất sắc nhất,
trong đó có cô Lưu Thị Quyên của Việt Nam.
Thế rồi Tổng thống Donald Trump cho tuyên dương cô nhỏ *Lưu Thị Quyên là
“Lãnh đạo trẻ” của thế giới*…!! Mà cái cô lãnh đạo này thì bé hạt tiêu, cô
ta chẳng biết sợ trời sợ đất là gì, cô ta phát biểu trước thế giới về những
phi lý của chế độ CSVN như là chuyện… chơi game !!
Nhờ cô Quyên mà cả thế giới bật ngữa. Người ta tưởng chuyện cám ơn lãnh tụ
chỉ xảy ra ở Bắc Triều Tiên, bởi vì dân trí ở đó ngang bằng mặt đất. Nhưng
người ta đâu ngờ ở Việt Nam cũng còn tư tưởng đó, mà ngay cả trong giới
trẻ có học thức. Thật là quá thất vọng !

Trước mắt nhà lãnh đạo trẻ Lưu Thị Quyên còn có hàng loạt những vấn đề cần
phải ra tay :
*Trước tiê*n là nhà nước phải công khai hóa con số Formosa chịu bồi thường
500 triệu USD ở đâu mà ra? Tại sao không phải là 400 triệu? Tại sao không
phải là 600 triệu, 700 triệu ?
*Thứ hai* là nhà nước phải công khai lỗi của Formosa. Formosa đã gây thiệt
hại như thế nào mà phải chịu phạt 500 triệu ? Con số này có quá đáng lắm
không so với lỗi mà Formosa đã phạm phải? Hay là không đáng bao nhiêu so
với tai họa do Formosa gây ra?
*Thứ ba l*à nhà nước phải công khai xác nhận các quan chức CSVN có đồng lõa
trong vụ sai phạm của Formosa không? Đồng lõa như thế nào?
*Thứ tư* là nhà nước phải công khai xác nhận quan chức CSVN có đồng lõa
trong việc đẻ ra con số 500 triệu USD bồi thường hay không? Đồng lõa như
thế nào ? Ai là người cho phép thương lượng và ai là người chịu trách
nhiệm thượng lượng ?
*Thứ năm* là nhà nước phải công khai chuyện tại sao ngay từ đầu Formosa đã
nhận là cá chết do nhà máy thép, thế mà nhà nước lại nói không chắc ? Rồi
đùng một cái nhà nước nói đúng là Formosa làm cá chết và Formosa đã chịu
bồi thường 500 triệu USD?
*Thứ sáu* là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phải công khai giải thích vì sao
Thủ tướng lại nói nếu kiện Formosa thì chưa chắc 30 năm sau đã nhận được
bồi thường?

Ngoài ra còn nhiều thứ khác nữa mà nhà lãnh đạo trẻ Lưu Thị Quyên cần phải
giải quyết; dĩ nhiên phải ưu tiên cho Formosa chứ nếu không thì sắp sửa
xảy ra đổ máu giữa dân oan Nghệ An, Hà Tĩnh với lực lượng đầu gấu của nhà
cầm quyền CSVN.

Có lẽ rồi đây cô nhỏ Lưu Thị Quyên không còn vô tư “lên tay múa ngón” trên
bàn phím như chơi game nữa, bởi vì gánh nặng trên vai của cô rất lớn so với
tuổi tác của cô….Cô đã thực sự trở thành chỗ nhờ của hằng triệu con người.
Và giờ đây không chỉ có 12.600 người đồng chí với cô, mà là 12.600 x 2,
12.600 x 3,… và đằng sau còn có cả ông Trump !!!…
Lãnh đạo Nguyễn Thị Kim Ngân đã từng mạnh miệng hỏi những người như Lưu Thị
Quyên đã làm được gì cho đất nước? Thì đây, 12.600 người trẻ tuổi đã hỏi
ngược lại bà Kim Ngân rằng bà đã làm được gì cho đòi hỏi công khai hóa ngân
sách nhà nước? Đó là công việc của chính bà. Để xem bà Ngân sẽ làm được
gì trước đòi hỏi chính đáng của Lưu Thị Quyên ?

Bùi Anh Trinh
FSP4VN

Cổ Nhạc Nếu Anh Biết (Nguyệt Ánh)

Chiếc Nhẩn Ân Tình - Bùi Thượng Phong


Chiếc nhẫn ân tình.
Bùi Thượng Phong

Khoảng cuối năm 1967 tôi nhận được sự-vụ-lệnh về cầm một Đại Đội của một Tiểu Đoàn mới thành lập chưa được bao lâu, thuộc Sư Đoàn 25
 
Bộ Binh lúc đó đang đồn trú tại quận Đức-Hòa.

TĐ này trước đó mấy tháng, được đặt dưới quyền chỉ-huy của một vị Th/T rất nổi tiếng bên Biệt-Động-Quân mới chuyển qua. Vì công-sự phòng-thủ chưa hoàn tất, BCH/TĐ phải tạm thời đóng trong một
ngôi biệt thự của một nhà máy xay lúa. Lợi dụng cơ hội này, VC đã bất ngờ dùng đặc-công và nội-tuyến, trong một đêm đen tối, chúng đã tràn ngập vào được BCH/TĐ ngay từ những phút đầu, gây thiệt hại rất nặng cho bên ta. Tai hại nhất, chúng đã lấy đi mạng sống
của cả hai vợ chồng vị TĐTrưởng mà ai đã từng là Biệt-Động-Quân cũng đều phải nghe danh: “Th/T Cọp-Ba-Đầu-Rằn”!

Tiếc thương ông và người vợ nữ-lưu anh-hùng, nhưng mọi người thầm tự hỏi: Có phải ông đã quá khinh địch? Hay ông có điều gì bất mãn khi đang trong một binh chủng nổi tiếng, nay phải chuyển về một đơn vị bộ binh khiến ông lơ là thiếu cảnh giác? Điều này chỉ riêng mình ông biết!

Sau trận thảm bại này, các anh em binh sĩ trong TĐ xuống tinh thần rất nhiều! Tiểu-đoàn phải chờ bổ xung thêm quân số và cần được “hấp” lại. Và tôi được chuyển về đây cũng trong dịp này.

Được nương nhẹ rất nhiều, nhiệm vụ chính của TĐ lúc đó hầu như chỉ là hành quân mở đường và làm an ninh vòng ngoài cho BTL/SĐ25BB tại Đức-Hoà. Lâu lâu cũng có
hành quân, nhưng chỉ là những cuộc hành quân lục xoát quanh vùng, sáng đi chiều về, như công chức!

Trong khoảng thời gian coi như nhàn hạ này, tôi đã quen biết một đứa bé gái tên là Hân, lúc đó khoảng 8, 9 tuổi, là cháu gọi bằng dì của cô Thanh, chủ ngôi nhà
 mà tôi đã xin phép để đặt BCH/ĐĐ.

Tôi chọn nhà cô Thanh vì không những nhà có một sân lớn, mà còn có cả một cái nhà cầu đàng hoàng! Cô Thanh, một phụ nữ khoảng trên dưới ba mươi, không đẹp cũng không xấu, ăn nói rất nhỏ nhẹ, dễ thương. Tôi không thấy chồng cô. Dù cô nghỉ dậy học đã lâu để trông coi việc ruộng nương, nhưng bà con lối xóm vẫn quen gọi cô là Cô Giáo. Dĩ nhiên cô Thanh không hề là đối-tượng của những sỹ-quan còn rất trẻ như chúng tôi hồi đó.

Còn nhớ ngày đầu tiên gặp và nói chuyện với cô ở ngoài sân, về việc xin tạm dùng căn nhà làm BCH/ĐĐ, tôi thấy có một đứa bé gái đứng dựa lưng một gốc cau gần
 đó, đang nheo mắt nhìn tôi rất
 
chăm chú. Thấy nó dễ thương, tôi quì một chân xuống ngang tầm nó và ngoắc nó lại. Nó phụng phịu lắc đầu không chịu. Cô Thanh nói như hơi gắt:
- Hân không được hỗn, lại cúi đầu chào Thiếu-úy, đi con!
Vẫn còn phụng phịu, nó tiến lại gần tôi và lí nhí nói mấy câu gì tôi cũng không nghe rõ!

Tôi thông cảm sự thay đổi quá đột ngột đối với gia đình cô giáo, đang vắng vẻ, neo đơn; nay bỗng dưng ồn ào náo nhiệt, ra vào toàn lính là lính!

Cô Thanh thì còn bận rộn với ruộng vườn, công thợ... chứ bé Hân thì ngoài giờ đi học, nó đụng độ tụi tôi suốt ngày! Mấy ngày đầu, nó có vẻ còn tránh né, nhưng rồi sau đó quen hết anh hạ-sĩ y-tá này đến bác thượng-sĩ thường- vụ kia. Nó trở nên vui vẻ và hòa đồng rất nhanh với cái không khí ồn ào nhưng kỷ-luật của đời lính chúng tôi. Đặc biệt, Hân quí tôi hơn cả, vì có mấy lần tôi đã giúp em giải một vài bài toán khó trong lớp. Nó quấn quít bên tôi suốt ngày, chuyện trò líu lo không ngừng nghỉ. Có những lần tôi đi hành quân về, nó núp trong bụi, rồi chợt ùa ra ôm lấy chân tôi cười nức nở... Mới 8, 9 tuổi, mà em đã biết dành dụm
tiền để mua đường, nấu đãi chúng tôi những bát chè thật ngọt ngào ấm bụng! Bù lại, những lần đi phép, không lần nào tôi không mua cho em, khi thì đồ chơi, khi khác là sách, tập...

Hân mồ côi cả cha lẫn mẹ.

Quê em ở mãi đâu vùng An-Hiệp, Thái-Mỹ. Em kể với tôi, nước mắt lưng tròng: Cha em một hôm đi làm ruộng, đạp nhằm phải mìn VC, chết không kịp trăn trối! Hơn năm sau, người mẹ cũng ra đi vì bịnh! Thế là em phải về núp bóng dì em, là cô giáo Thanh.

Tôi lúc đó chưa lập gia-đình, thực tình, tôi thương Hân như thương người em út, nó còn kém đứa em út của tôi ba, bốn tuổi!

Tuy ở với dì ruột, tôi biết Hân đang thiếu một tình thương phụ mẫu, nhất là hình bóng của một người cha. Và... không phải là một nhà Tâm-lý-Học, tôi không thể biết nổi: ở tuổi nào sớm nhất, một đứa con gái có thể biết yêu? Vì có một lần, mấy cô bạn gái của tôi từ Sàigòn lên thăm. Khi họ ra về, bé Hân đã đối xử với tôi một cách rất khác thường! Nó lảng tránh và ít nói hẳn, không hồn nhiên như trước nữa! Hình như nó cũng biết hờn, ghen? Tôi nghĩ dù sao, nó chỉ là một đứa con nít! Mà đúng thế, chỉ được hai hôm là cô nàng đã quên hết ! Lại dở trò nghịch ngợm, chọc phá như cũ...

Hồi đó cứ như thế, tôi lấy tình thương yêu của anh em binh sĩ dưới quyền và luôn của bé Hân như một hơi ấm gia đình. Đang ở cái tuổi tràn đầy nhựa sống, mấy anh chàng sỹ-quan lóc chóc như tụi tôi, có thì giờ là la cà tán tỉnh mấy em cỡ tuổi đôi tám, chợt nở rộ như những bông hoa đầy hương sắc miền thôn dã, chẳng hạn như em Huệ con một ông chủ nhà máy xay, hoặc Giáng Tiên, hoa khôi tỉnh Hậu-Nghĩa!


Thế nhưng mấy tháng nhàn hạ qua nhanh như gió thổi, khi TĐ vừa có một sinh khí mới, thì biến cố Tết Mậu-Thân xẩy ra! TĐ hành quân mệt nghỉ, ngày nào cũng có hành quân, ngày nào cũng có đụng độ, mà trận lớn nhất xẩy ra vào trước Tết khoảng 2, 3 ngày. ĐĐ của thằng bạn cùng khóa nhẩy vào giữa một TĐ VC. Chúng đang ếm quân trong khu vực Rạch Gấu, chờ xâm nhập để đánh vào Phú-Lâm ngày mồng một Tết. Hai trực thăng bị trúng đạn phải quay về, ĐĐ của nó thành ĐĐ trừ! Không đủ trực-thăng, ĐĐ của tôi phải lội bộ vào tiếp cứu. Địch áp đảo về quân số, vũ khí có thừa, nhưng mục tiêu của chúng là vùng Chợ Lớn, ngày Tết, không phải là chúng tôi. Thế nên chúng chỉ cầm cự, chờ đêm xuống là rút. Vậy mà mãi mờ sáng hôm sau, tụi tôi mới thanh toán xong mục tiêu. Nhờ những phi-vụ oanh tạc và pháo binh bắn suốt đêm, VC dù đã cố kéo theo,nhưng cũng đành để lại rất nhiều xác chết và vũ khí. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng không vui gì khi phải đem ra xác thằng bạn ĐĐ Trưởng và bốn binh sĩ dưới quyền của anh! Tội nghiệp, anh quê ở HócMôn, ra trường là xin ngay về SĐ25 cho gần nhà!

Khóa chúng tôi đã có một số nhờ tài thao lược, lòng dũng cảm, cộng thêm sự may mắn, đã vượt qua nhiều gian khổ và nguy hiểm mang lại nhiều chiến công vẻ vang cho quân đội, nổi bật nhất là Tr/T
 
BĐQ Lê-văn-Ngôn với 510 ngày trấn thủ Tống-Lê-Chân. Đa số còn lại đều đã hy sinh khi còn rất trẻ, trong những trận đánh tuy khốc liệt, nhưng không một ai biết, chẳng một ai hay! Tên tuổi và thành tích hiếm khi được xuất hiện trên trang nhất các nhật báo, mà đa phần chỉ thấy nằm trong những khung hình chữ nhật, mầu tang đen nơi trang bốn! Qua hai đợt Mậu-Thân, tôi sống sót và được thăng Trung-úy, nghĩa là sớm hơn quy định khoảng gần nửa năm, nhưng đến cuối năm 1969 tôi bị thương nặng, miểng mìn văng đầy người. Tệ nhất, có một miểng chém vào động mạch bên nách phải, máu ra rất nhiều và nếu không nhờ trực thăng tản thương về bệnh viện dã chiến của SĐ25 Hoa-Kỳ, chắc chắn là tôi đã theo mấy thằng bạn vui vẻ về miền quá cố rồi!

Khi cơn thập tử nhất sinh đã qua, tôi được chuyển về nhà thương Cộng-Hòa.

Một hôm tôi đang nằm cho y tá rửa vết thương và thay băng thì có mấy anh em Ban 5 Trung và Tiểu Đoàn lên thăm. Tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy có cả bé Hân trong đó. Nó chạy ngay lại ôm lấy tôi, nước mắt đầm đìa... Ông Thượng-sĩ thường-vụ của tôi sau khi thăm hỏi xong, nói nhỏ vào tai tôi:
- Ngày nào nó cũng lên TĐ, xin bằng được nếu khi nào TĐ lên thăm thương bịnh binh, nhớ cho phép nó đi theo!

Tôi nhìn xuống con bé đang rúc cái đầu bé nhỏ vào bụng tôi, tấm thân mảnh mai của em thì rung rung theo tiếng nấc. Tôi cúi xuống hôn trên mái tóc mềm mại của nó và cứ để như vậy một lúc lâu, bởi vì chính trong lòng tôi cũng đang ngẹn ngào, xúc động!

Lúc sau, tôi nâng cầm nó lên, trấn an nó:
- Chú không sao đâu. Chỉ một thời gian ngắn nữa là chú sẽ lành vết thương và sẽ được xuất viện.
- Rồi Trung-úy có trở lại Đại đội không? Nó ngước mặt e ngại hỏi tôi điều mà nó quan tâm nhất.
- Chú cũng không biết nữa, chắc là phải ra một hội-đồng quân-y để họ giám định. Sau đó, chú mới biết.
- Vậy khi nào xuất viện, chú xuống thăm Hân nha? Tôi mỉm cười nhìn nó:
- Chắc chắn là chú sẽ đến thăm Hân và các anh em trong đại-đội, ngay khi nào chú có thể đi được.

Lúc này mới thấy nó nở một nụ cười, rồi cúi xuống nhấc lên một túi nhỏ và lấy từ trong đó ra một ít trái cây để trên chiếc bàn nhỏ đầu giường. Thì ra nó cũng biết đem qùa cho thương binh!

Phái đoàn thăm viếng lúc này đã xin phép tôi để qua thăm các anh em thương binh khác. Trước khi ra khỏi phòng, ông thượng-sỹ thường vụ cúi xát tai Hân dặn dò:
- Khoảng nửa tiếng nữa con ra chỗ đậu xe để về nha. Về sớm cho an toàn.

Nó ngoan ngoãn gật đầu, rồi bắt đầu bi bô:
- Tháng trước ai trong đại đội cũng tin là chú đã chết rồi. Tiểu-đoàn không có tin tức gì vì chú nằm ở bệnh viện Mỹ. Mãi sau, khi họ chuyển về Cộng-Hòa mới biết chú còn sống. Dì Thanh có dắt
 
Hân đi cầu nguyện trên chùa hoài. Dì con nói gởi lời thăm chú.

Đến đây, nó bắt đầu quay qua nhìn mấy vị sỹ-quan thương binh khác nằm cùng phòng. Chợt thấy chiếc nhẫn của tôi để trên mặt bàn lúc tháo ra cho y tá rửa vết máu trong các ngón tay, nó cầm lên ngắm nghía rồi hỏi:
- Nhẫn này của chú? Sao bự và đẹp quá vậy?
- Ừa, nhẫn của chú. Đây là chiếc nhẫn lưu-niệm của trường Võ-Bị ĐàLạt, lúc mãn khóa ai cũng có.
- Chú qúi nó lắm?
- Chú rất qúi nó, và chú đã đeo nó từ khi ra trường.

Nó nhẹ nhàng để lại chiếc nhẫn vào chỗ cũ, rồi quay ra ôm lấy tôi, như thể không muốn xa rời. Nó kể đủ thứ chuyện ở Đức-Hòa, đâu là đại đội đã có ĐĐTrưởng mới, nhưng không còn đóng ở nhà nó nữa, các chú trong BCH/ĐĐ vẫn thường ghé thăm luôn...

Nửa giờ sau, ông thường-vụ đã xuất hiện ở cửa phòng, nói với vào
- Chào Trung-úy đi Hân, đến giờ về rồi.
Hân bắt đầu lúng túng, vòng tay bé nhỏ, nó cố ôm lấy tôi. Mấy phút sau, tôi phải nhẹ nhẹ gỡ nó ra:
- Thôi Hân về đi không họ chờ.
Nó nhìn tôi như muốn khóc:
- Chú hứa nha! Đừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đấy!

Nói rồi nó buông tôi, từ từ bước ra cửa, hình như nó đã khóc. Đến cửa phòng, nó quay lại nhìn tôi, bàn tay bé nhỏ của nó đang cố chùi những giọt lệ... Không cầm lòng được, tôi gọi nó:
- Hân lại đây với chú.
Tôi cầm chiếc nhẫn lưu-niệm của tôi, nhẹ nhàng để vào lòng bàn tay của nó:

-
 Hân giữ cho chú chiếc nhẫn này. Giữ thật kỹ và đừng cho ai biết. Hân biết là chú qúi nó như thế nào rồi. Khi nào xuất viện chú sẽ đến thăm Hân và Hân đưa lại cho chú, Thế có được không?

Thật không ngờ, cái ý-kiến bất chợt đến với tôi lúc đó lại có tác dụng ngay. Hân vui mừng ra mặt, ít nhất nó đã có một vật làm tin kèm theo lời hứa. Lau hết nước mắt nó thủ thỉ:
- Dạ, con sẽ giữ thật kỹ, chờ khi nào Trung-úy đến con giao lại.

Tôi xoa đầu nó rồi đẩy nhẹ nó về phía cửa. Lần này, nó quay lại mỉm cười nhìn tôi và rồi bóng nó từ từ lẫn vào với dòng người thăm viếng bên hành lang bịnh-viện...

Tôi xuất viện sau đó chừng một tháng, và phục hồi mau lẹ. Tuy vậy, phải chờ đến tháng ba năm 1973 tôi mới nhận được giấy tờ giải ngũ chính thức. Nhìn ngó bên
 ngoài, tôi may mắn không mất mát gì cả, nhưng những ngón tay bên mặt, nhất là ngón chỏ, không co duỗi bình thường được. Cầm tờ chứng-chỉ giải-ngũ trong tay, tôi ngậm ngùi: thế là vĩnh viễn giã từ vũ khí!

Trong khoảng thời gian chờ quyết-định của Hội-Đồng Quân-Y, tôi đã đi Đức-Hòa thăm lại chốn xưa. ĐĐ của tôi gần như hoàn toàn mới, chỉ trừ một vài anh em trong BCH/ĐĐ nhận ra tôi, còn lính tráng hầu hết là lính mới, nhìn tôi như nhìn một người xa lạ! Chiến tranh đã làm thay đổi nhanh không thể ngờ được!

Tôi lần mò đến nhà cô giáo Thanh để thăm cô và bé Hân nhưng thật không may, người nhà cho biết hai dì cháu cô đã đi ăn đám giỗ bên Bình Thủy, có lẽ đến chiều mới về.

Tôi buồn rầu về lại Sàigòn, tự hứa sẽ trở lại vào một dịp khác.

Chiến tranh vẫn còn đó, chiến trận gia tăng khắp mọi nơi, nhưng Sàigòn vẫn còn là một mảnh đất khá bình yên! Nó như một hải đảo nằm giữa một biển lửa. Và tôi đã phải cố gắng để thích ứng với cuộc sống hoàn toàn thay đổi. Dù sao, tôi vẫn còn trẻ. Tôi làm việc như một cái máy, nhưng tôi không còn bị cô đơn, cái cô đơn của một người chỉ huy, dù chỉ là một cấp nhỏ; tôi tự do, không còn bị ràng buộc vào một trách nhiệm có liên can đến sinh mệnh của
 nhiều người khác. Tâm trạng thả lỏng này đã dẫn tôi đắm mình trong thụ hưởng, để bù lại cho bao năm tháng tuổi xuân đã qua đi trong quân-trường và ngoài trận địa.

Bận rộn vì công việc lúc ban ngày, say mê trong ánh đèn mầu của các vũ-trường vào ban đêm, tôi gần như đã quên hẳn Hân, một đứa bé đang ở một nơi thiếu an ninh, mà chỉ một năm trước, tôi đã coi nó như một đứa em ruột thịt. Tôi đã tự khất lần, và ngần ngại không muốn ra khỏi Đô-thành, nơi mà lúc nào cũng có những cuộc vui đang chờ sẵn.

Khoảng đầu năm 1974, nhân một chuyến đi Trảng Bàng, tôi ghé vào Đức-Hòa và gặp lại Hân. Căn nhà vắng vẻ, khu xóm cũng thiếu bóng những người lính, có lẽ họ đang
 bận rộn trong một cuộc hành-quân nào đó. Khi tôi đến, chỉ có mình Hân ở nhà, cô Thanh có lẽ đang đi coi ruộng vườn.

Hân lúc này không còn bé nữa, em đang là một thiếu-nữ tràn đầy nhựa sống với một vẻ đẹp tự nhiên và tuyệt mỹ mà Thượng-Đế chỉ dành cho những người con gái đương độ thanh xuân. Em mừng đến rơi cả nước mắt khi thấy tôi. Rót nước mời, em vẫn thân mật nhưng tỏ ra hơi e thẹn, cái e thẹn dễ yêu của các cô gái đang dậy thì.

Hân cho biết em đã trông mong tôi từng ngày, và rất ân hận vì lần trước tôi đến, mà em không được gặp. Lấy chiếc nhẫn dấu kín trong hộc tủ, Hân đưa nó sát mặt tôi, rồi nắm vội nó trong bàn tay và ấp lên ngực:
- Hân biết đây là chiếc nhẫn lưu-niệm của chú, nó lưu lại những kỷ-niệm của chú với quân-trường ĐàLạt; nhưng bây giờ, nó cũng đã trở thành một vật lưu-niệm của Hân. Nó đã lưu lại những kỷ-niệm giữa Hân và chú. Hân muốn được giữ nó lâu hơn nữa, như vậy có được không?
Tôi cảm động trước những lý lẽ phát ra tự con tim của em:
- Hân cứ giữ nó đi, như vậy khi nào chú đến với Hân, chú sẽ được gặp cả hai.
Quá vui mừng, quên cả e thẹn, Hân chạy lại ôm tôi, và nói trong cảm động:
- Thực ra, khi có chiếc nhẫn bên mình, Hân có linh cảm là chú sẽ luôn luôn quay về tìm Hân, và như vậy Hân sẽ không bao giờ mất chú.
Tôi ôm chặt Hân, và hôn nhẹ trên trán em như vài năm trước, khi em còn rất nhỏ.

Hình như Hân muốn nhiều hơn thế, em từ từ ngước mặt lên để mong hai làn môi chạm nhau, nhưng tôi đã tự dừng lại bằng cách buông lỏng em. Có phải tôi đang còn
 
bối rối giữa Hân, một đứa bé và Hân, một cô gái đang độ xuân thì?

Chúng tôi chia tay nhau khi ánh chiều vừa xuống. Tôi hứa với Hân sẽ lên thăm em thường hơn. Cả hai cùng bịn rịn, không nỡ rời nhau, nhưng rồi phút chia ly cũng phải tới, tôi lên xe về lại Sàigòn mang theo một hình ảnh của Hân, đầy nước mắt...

Những tháng ngày sau đó, thời cuộc biến đổi không ngừng... Tất cả đều thất lợi cho miền Nam chúng ta. Ngay cả con đường từ Sàigòn đi Đức-Hòa cũng không còn an ninh nữa! Tiếp đến là những biến cố dồn dập, nó đến nhanh quá, như dòng thác lũ, như cơn đại hồng thủy, nó cuốn đi hết cả... Không kịp nữa rồi, những gì ta không làm, hoặc chưa làm, đành phải xếp lại trong niềm hối hận khôn nguôi...

Câu “nước mất, nhà tan” thật là thấm thía với tâm trạng của những người bỏ nước ra đi ngày ấy! Ra đi là không bao giờ nghĩ đến ngày trở lại, ra đi là chấp nhận cả một trời mù mịt, đau thương!

Tôi cũng ở trong số ít những người “bất hạnh nhưng may mắn” này! Tất cả nhân dân miền Nam coi như gẫy cánh nửa đường; có khác chăng, chỉ là mỗi người “gẫy” một kiểu.

Riêng tôi đã gẫy một lần rồi, vừa mới bắt đầu xây dựng lại, thì nay lại gẫy thêm một lần nữa..

o O o
Vật lộn với cuộc sống đến năm thứ 32 trên nước Mỹ, tôi quyết định nghỉ hưu vì đã thấm mệt, cả thể xác lẫn tinh thần. Những chuyện ngày xưa khi nhớ, khi quên.
Nhiều chuyện quên hẳn, như gió thoảng, như mây bay!

Dòng đời thay đổi, cũng chỉ là lẽ tự nhiên của cuộc sống!

Những ngày, tháng buồn tênh, tôi chợt nhớ đến một câu thơ, không biết đã đọc được ở đâu và ai là tác giả:

Khi ta ở, đất chỉ là đất,
Khi ta đi, đất đã hóa linh hồn!
Vâng, linh hồn của đất, của những nơi ta đã từng đi qua, những nơi ta đã từng dừng lại... Nó đã có một linh-hồn, và linh-hồn đó đã ám ảnh tim ta, như muốn gọi ta về.

Và ... tôi đã về thăm lại Sàigòn vào năm 2007!
Vẫn biết đổi thay là lẽ tự nhiên của cuộc sống, sao tôi vẫn thấy bàng hoàng, tiếc nuối những ngày xa xưa?!

Lang thang mãi ở Sàigòn, chán! Một hôm, tôi trở lại Đức-Hòa, tò mò muốn biết giờ nó ra sao? và... những người muôn năm cũ...? Hơn ba mươi năm đã trôi qua, vật đổi sao rời, bóng chim tăm cá.

Đức-Hòa đã thay đổi theo một chiều hướng đi xuống! Ngày xưa, dù đang là thời chiến tranh, nó vui nhộn biết là bao: hàng quán, lính tráng, người mua kẻ bán ồn ào, tấp nập. Những con đường, tuy chỉ nhỏ vừa cho hai xe nhà binh tránh nhau, nhưng đầy bóng mát của những hàng cây cao... Giờ đây, có những con đường mới mở, rộng thênh thang, thẳng tắp, nhưng trống trơn dưới ánh nắng như thiêu như đốt, không một bóng cây; xe cộ thì lẻ loi vài chiếc! Thị-xã
 giống như một cô gái quê, xấu, đang cố làm dáng với những vết son vụng về tô vội!

Đến khu Bình Tả, nơi ngày xưa tôi đã đóng quân. Cảnh vật không thay đổi nhiều, nhưng sao trông thật hoang sơ, buồn thảm. Tại một ngã ba, ngày ấy có một cái quán lụp xụp, lúc nào cũng ồn ào những lính. Chính tại nơi đây, tôi đã ăn một tô hủ tíu ngon nhất trong đời! Đi vào sâu hơn khoảng trăm mét là ngôi biệt thự nhà máy xay. Căn nhà hình như đang bỏ hoang. Hỏi thăm thì biết cô Huệ đã định cư bên Úc từ lâu. Cô Giáng Tiên, hoa khôi Hậu-Nghĩa, nghe
 nói sau này lấy một sỹ-quan Biệt-động-quân đẹp trai, giờ này chắc đang ở bên Mỹ. Đi sâu hơn nữa thì gặp tàn tích của một cái đồn, đồn này là của tiểu-đoàn chúng tôi hồi đó. Gần đấy có cắm một cái bảng nhỏ, trên đề: Di tích lịch-sử - Cấm đến gần!

Tự nhiên, tôi thấy lạnh toát người. Có phải anh linh của bao nhiêu chiến sĩ ngày xưa, vẫn như còn đang phảng phất đâu đây?!

Ra thăm khu trung tâm thị-xã, ở đây có thay đổi chút ít. BTL/SĐ25 BB nay hình như đang là một khu dành cho trẻ em, ngay trước cổng vào có một căn nhà nhỏ, trong đó trưng bầy hình ảnh và những kỷ-vật của ông Võ văn Tần!

Chợ Đức-Hòa có xây một mặt tiền mới, quay về hướng khác, nhưng bức tường mặt tiền cũ vẫn còn nguyên.

Đang ngơ ngáo nhìn ngó cảnh vật, tôi chợt để ý có một bà cụ cứ chăm chú nhìn tôi. Bước đi vài bước, bà lại quay đầu nhìn lại; cuối cùng bà cụ đến gần nhỏ nhẹ hỏi tôi:
- Nếu không phải, xin ông thứ lỗi. Phải ông đây là Trung-úy Phong không?

Tôi giật bắn người. Chắc chắn đây là một người quen biết với tôi, nhưng nghĩ mãi, tôi đành chịu:
- Dạ, tôi là Phong đây! Xin lỗi, trí nhớ tôi hơi kém, bà đây là...?

- Trời đất, Mô Phật! Thiệt không ngờ cũng có ngày tôi lại gặp được Trung-úy! Tôi là Thanh đây. Xưa Trung-úy có đóng quân nhà tôi, Trung-úy còn nhớ không?

Lúc này thì hình ảnh của một cô giáo Thanh ngày xưa đã lờ mờ lẫn vào khuôn mặt già nua của bà cụ, tôi mừng rỡ:
-...Cô giáo Thanh. Tôi nhận ra rồi. Tôi nhận ra rồi. Chà, cô trông còn mạnh lắm, đi không cần chống gậy mà. Xin mời cô vô quán nước đây ta ngồi nói chuyện.

Đôi mắt già nua của cô Thanh đã thấy có ánh nước, cô cầm tay tôi ân cần:
-Thôi, quán xá gì. Chắc là Trung-úy ở nước ngoài về thăm quê hương? Trung-úy có rảnh mời ghé lại tôi uống miếng nước. Nhà cũng gần đây thôi.

- Dạ. Tôi ra khỏi nước từ năm 75, giờ nghỉ hưu rồi mới có dịp về thăm lại. Hồi nãy đi ngang, tôi thấy nhà cũ của cô giờ dường như là một nhà máy gì đó?
- Bị nhà nằm trong khu “quy-hoạch”, nghe đâu họ đã bán đất đó cho Hàn quốc lập nhà máy may gì đó. Tôi phải mua bậy một căn nhà cũng gần chợ đây thôi, cho nó tiện.
Mời Trung-úy đi theo tôi, chút xíu là tới à.

Lẽo đẽo theo chân bà cụ đi sâu vào một con đường nhỏ ngang hông chợ, tôi ngần ngại ngỏ ý:

Tôi giã từ quân đội lâu lắm rồi, cô Thanh cứ gọi tôi bằng tên cho tiện.
- Không có sao đâu. Ở đây bà con cỡ tuổi tôi, ai cũng qúi những người lính Cộng-Hoà khi xưa! Lại bởi tôi quen miệng rồi, tôi nhớ trung-úy là trung-úy, gọi khác nghe kỳ lắm.

Đến đây, mặc dù tận đáy lòng, như có một chút gì hơi hổ thẹn vì sự thất hứa năm xưa, nhưng tôi không thể quên được Hân:
- Thế cháu Hân giờ sao rồi? Chắc cũng con cháu rầm rề cả!?

Cô Thanh bỗng như chùng xuống, cô nói rất nhỏ, giọng run run:
- Cháu... cháu nó không còn ở với tôi nữa.

Vừa lúc đó, cô dừng lại trước một căn nhà, nhà của cô. Phải qua một cái sân nhỏ trước khi vào tới phòng khách. Cô Thanh dơ tay:
- Dạ, mời ngồi. Để tôi lấy nước trà mời trung-úy.

Trong nhà còn có hai vợ chồng người bà con của cô, tuổi khoảng ngũ tuần. Cô Thanh sai họ châm bình nước trà, đoạn rót ra trân trọng mời tôi. Không giữ được kiên nhẫn, tôi hỏi:
- Hồi nãy cô nói cháu Hân không còn ở với cô. Vậy giờ cháu đang ở đâu?
Sau một hơi thở thật dài, cô Thanh bỗng bật lên khóc nức nở. Hai tay bưng mặt, cô nói trong tiếng nấc:
- Cháu nó đã mất rồi! Nó bỏ tôi đã gần ba chục năm rồi trung-úy ơi!

Tôi bàng hoàng, choáng ngợp như vừa bị dội cả một thùng nước lạnh vào người! Qua một phút xúc động đến tột cùng, tôi lấy lại bình tĩnh:
- Cháu nó qua đời như thế nào, cô có thể cho tôi biết được không?
- Chuyện cũng hơi dài dòng, vì vậy tôi có ý mời trung-úy tới nhà, mình có nhiều thời gian hơn. Cô Thanh có vẻ đã lấy lại được chút bình tĩnh, cô tiếp:
- Tôi nhớ nó mất năm Mậu Ngọ, 1978. Lúc đó khó khăn lắm, cả nước đói! Ở quê như chúng tôi mà cũng phải ăn độn! Cháu Hân bỏ học ngay từ năm 75. Nó nói học hành gì mà tối ngày họp tổ, họp đoàn,
rồi chửi bới chế độ cũ... Vậy mà cũng không thoát, nó phải nhập vào cái gì kêu là thanh-niên xung-phong gì gì đó, đi làm thủy lợi. Nghĩa là đào kinh, đắp mương đó, trung-úy.

Ngừng lại vài giây như thể để lấy thêm sức, cô tiếp:
- Hồi đó nó đang tuổi con gái, mà ăn uống thì thiếu thốn. Lại thêm thi đua này nọ, nó bị mất sức nhiều lắm, rồi bị sốt xuất huyết. Bịnh cũng không đáng gì, nhưng thuốc men hồi đó hoàn toàn không có. Ăn còn không đủ, nói chi thuốc!... Lúc đó nó mới vừa 19 tuổi.
Đến đây, cô lại ôm mặt nức nở... Tôi lại gần cô, vỗ về an ủi:
- Số phận đã an bài như vậy, không cho em qua được cơn khó khăn. Cô cũng không nên rầu rĩ quá không có lợi. Tuổi cô cũng như tôi, ngày một yếu kém...
- Tôi cũng biết vậy, và tôi cũng đã cố giữ gìn sức khỏe, để sống đến ngày hôm nay...

Nói tới đây, cô Thanh từ từ đứng dậy, hướng dẫn tôi đi về phía bàn thờ giữa căn nhà.
Phía trên bàn thờ, tôi thấy có treo hai tấm hình lớn mà tôi đoán là song thân của cô Thanh; đặt trên mặt bàn thờ phía bên trái, có ba tấm hình mà một trong ba tấm đó, tôi nhận ra là em Hân.

Hình chụp có lẽ vào lúc em 17, 18 tuổi, trông xinh đẹp như một bông hoa đang nở.

Khi tôi nhìn em thì đôi mắt của em cũng đã nhìn vào tôi từ lâu lắm rồi, có lẽ ngay từ khi tôi bước vào căn nhà này! Thắp nén nhang, tôi biết tim tôi đang chảy ra thành nước, và dòng nước ấm đó đang chảy ngược lên phía đôi con mắt ... Khói nhang bốc lên không gian và tỏa rộng. Ánh sáng yếu ớt khúc-xạ qua làn khói, làm như em đang mỉm cười nhìn tôi. Có lúc lại không phải là cười, mà đang nhìn tôi như trách móc!?

Mắt tôi bỗng nhiên hơi mờ đi, hình ảnh của Hân, một buổi chiều xa xưa trong dĩ-vãng bỗng hiện về, bé nhỏ lẫn trong đám người thăm viếng ở bịnh-viện Cộng-Hòa, em quay lại mỉm cười nhìn tôi...
Và rồi lần cuối cùng tôi gặp, cánh tay bé nhỏ dơ lên chào tạm biệt khi tôi trở về Sàigòn, mắt em đầy lệ...

Một âm thanh mơ-hồ như vọng lại từ một nơi nào xa, xa lắm:

- ...Đừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đấy!...

Người tôi lúc đó như muốn rũ xuống, tôi cố gắng hết sức đứng thẳng người, nhìn tha thiết vào đôi mắt em, cầu xin một tha thứ.

Ngay trước bức hình của em, tôi thấy có một hộp nhỏ bằng nửa bàn tay, khảm xà cừ mầu đen rất đẹp. Thấy tôi nhìn vào chiếc hộp nhỏ, cô Thanh nói như khuyến khích:
- Trung-úy cứ cầm lên và mở ra coi.

Tôi nhẹ nhẹ cầm chiếc hộp lên bằng hai tay và mở nó. Một thứ ánh sáng như lóe lên: chiếc nhẫn Võ Bị năm xưa của tôi hiện ra, sáng bóng, nằm trong hộp trên một miếng nỉ trắng.

Cầm chiếc nhẫn trên tay, tôi chợt rùng mình, dường như có một luồng điện nhẹ đang chạy qua khắp châu thân! Qua bao năm tháng, chiếc nhẫn vẫn còn đây mà người xưa đã mất. Chiếc nhẫn như nhắc
tôi một lời hứa mà tôi không giữ trọn! Nhìn giọt nước mắt rơi, tôi mới biết mình đang khóc. Thực lòng, tôi cũng không biết tôi đang khóc vì vui mừng thấy lại một kỷ-vật xưa, hay đang khóc vì tràn đầy ân hận.

Rồi như một phản xạ, tôi đưa nó lên gần miệng, hà một hơi ấm vào viên hồng ngọc rồi chà sát nhẹ nhẹ vào ngực, phía trái tim.

Nhạt nhòa trong nhang khói, tôi thấy Hân như lại mỉm cười. Có phải tôi tưởng tượng không, hay đang có một thần giao cách cảm?

Cô Thanh từ nãy chỉ đứng yên lặng theo dõi, bỗng cô nói, giọng nhẹ như hơi thở:
- Những lúc còn tỉnh, cháu nó đã kể hết cho tôi nghe vì sao nó có chiếc nhẫn này. Trước đó, nó đã giấu cả tôi, giữ kín và âm thầm chờ mong cho đến những ngày cuối cùng. Trước khi nhắm mắt, nó còn dặn tôi phải để chiếc nhẫn này ngay trước hình thờ của nó, vì nó quả quyết là sẽ có một ngày, một ngày trung-úy sẽ tìm đến.

Ngừng một phút, cô nói thật nhỏ, như nói với chính mình:
- Cũng phải mất hơn ba chục năm! Giờ thì châu đã lại về hiệp phố!

Đặt lại chiếc nhẫn vào trong hộp và trân trọng để chiếc hộp vào đúng chỗ ban đầu, tôi quay qua cô Thanh:
- Thưa cô, chắc nó không cần về “hiệp phố” nữa đâu. Tôi giữ nó chỉ có khoảng 5 năm, thế mà chiếc nhẫn này nó đã ở bên em Hân những trên ba mươi năm, những lúc em còn sống và cả những lúc em đã qua đời. Tôi không thể hình dung được rồi mai đây, bên hình của em sẽ chỉ còn là một khoảng trống. Tôi biết khi xưa, em luôn luôn muốn có chiếc nhẫn này ở bên cạnh. Cái chỗ đúng nhất của nó là ở trong cái hộp này, ở tại nơi đây! Xin phép cô, cho tôi cứ để nó bên em Hân mãi mãi... Âm dương là muôn đời cách trở, nhưng tôi muốn mượn chiếc nhẫn này, như một vật xúc-tác giữa hai linh hồn, một linh hồn sống tha-phương nơi đất khách quê người, và một linh hồn mãi mãi trên quê hương...

o O o
Cô Thanh ân cần mời tôi ở lại dùng cơm chiều, nhưng tôi phải từ chối vì không muốn trở lại Sàigòn khi quá tối. Tôi hẹn tuần sau sẽ lên để thăm mộ và đốt cho em Hân một nén nhang
 
Khi tiễn tôi qua chợ, cô cười nói với tôi:
- Trung-úy biết không, khi mua lại căn nhà gần chợ này, tôi cũng có chủ ý là được thấy thật nhiều du khách Việt-kiều. Thấy ai có dáng Việt-kiều là tôi ngó thiệt kỹ. Không dè cũng có ngày Trời
 
Phật thương.

Tôi mỉm cười trước những ý nghĩ chân chất và đôn hậu của một người miền Nam như cô Thanh. Từ giã cô, tôi theo tỉnh lộ 10 để về Sàigòn. Trước kia con đường này ít khi được xử dụng vì luôn luôn bị đắp mô, mìn bẫy...

Thương hải biến tang điền! Ngàn xưa đến ngàn sau, dù muốn hay không, đổi thay mãi mãi vẫn là một bản chất tự nhiên của cuộc sống!
Chỉ có tình-cảm của con người, có những thứ tình-cảm mà đời đời, không bao giờ thay đổi

...Vậy mà nhiều khi tôi vẫn đinh ninh rằng: Đã mất hết cả rồi!

Bùi Thượng Phong
FSP4VN

Cổ Nhạc Tìm Con (Nguyệt Ánh)

Cổ Nhạc Mẹ Việt Nam Ơi Con Sẽ Về (Nguyệt Ánh)

Wednesday, May 17, 2017

LỜI TRĂN TRỐI của Thầy Tuấn Ngọc chuẩn bị trước khi chết | Phần 2 | Tư d...

LỜI TRĂN TRỐI của Thầy Tuấn Ngọc chuẩn bị trước khi chết | Phần 1 | Dặn ...

So Sánh DẠY THÊM và BÁN DÂM - Thầy Tuấn Ngọc

Thầy Tuấn Ngọc - Vạch Trần Bốn Lý Do Đổi Tiền

Những người con Việt ở hải ngoại sẵn sàng quay trở Việt Nam xây dựng khi...

Sinh Nhật 6 Năm của Đài Radio Đáp Lời Sông Núi - 15/5/2017

Radio Đáp Lời Sông Núi 14/5/2017: Hai trẻ mục đồng được Đức Mẹ Fatima hi...

Radio Đáp Lời Sông Núi 16/5/2017: DÂN NGHỆ AN BAO VÂY ĐỒN CÔNG AN HUYỆN ...

Radio Đáp Lời Sông Núi 17/5/2017: GIỚI CHỨC HẢI QUAN PHỦ NHẬN VIỆC ĂN CẮ...